(Bắt đầu trang 1.)
Lời Tựa
Những đoạn văn ngắn gọn minh triết và thông suốt trong cuốn Tự Kỷ Giáo Pháp là đề ra những công thức đốn văn, mở Đạo một cách thuần hoá pháp môn thanh tịnh.
Mở một bài kinh văn
Giác ngộ một chơn tánh.
Vũ Trụ Hư Vô lấy khí hoá vận hành để tiến Dương bổ Âm, sanh dưỡng con người, thú cầm, và vạn vật.
Nhìn lại các kỳ hoa dị thảo sống giữa gió sương, nhưng vẫn khoe mình đua nở, để dâng cho đời một mùi hương thơm thanh nhẹ.
Đạo kết lý để mở mang,
Khí kết tịnh để nuôi dưỡng.
Trời Đất bao la nhưng soi thấu lòng người.
Đạo Học tuy vô vi nhưng nhờ văn chương để tỏ sáng.
Mỗi bài văn ngắn trong đây là những loại hoa nho nhỏ đang đua nhau nở rộ giữa vườn Xá Huệ Quốc của những tâm hồn đạt Đạo. Những lời văn ngôn nó sẽ là ngọn gió Xuân sưởi ấm tình người, cho những ai đi vào trong một biển yêu của Thượng Đế.
Xuân về nhìn hoa Trời,
Đạo về nhìn hoa tâm.
Tình Trời hiện hửu trong khắp mọi nơi. Tình người đại diện cho Ngài, khai sáng khắp cả Vũ Trụ và con người, như cha mẹ và con sống chung trong một gia đình vô vi cao cả. Chỉ có số người quên đi khối tình của Vũ Trụ Đại Đồng mới thấy mình cô đơn vô vị.
Nếu bạn là một người tu thân tham thiền nhập định, bạn sẽ đón nhận được tình Trời yêu thương vô cùng tận đang hiện diện trong một con người hiền tu minh giác. Con người càng đi sâu vào trong nội thức thì càng hưởng trọn vẹn nguồn hạnh phúc thiêng liêng của tình Trời.
Hạnh phúc vô tư sống trong mình
Vô hình vô tướng sáng quang minh
Tình yêu tôi hiệp tình Hoàn Vũ
Cầm đuốc từ quang độ nhân sinh.
Ngắm lại vườn hoa của Thái Bình
Tình Trời cao thượng đắc Chơn Linh
Hoa sen hạnh đức luôn sống mãi
Mãi sống trong lòng của chúng sinh.
Kính Bái,
Đức Thầy Vô Danh Thị.
Chơn Đạo Vô Hình.
Chơn Phật Vô Tướng.
Chơn Nhơn Vô Danh.
Chơn Tu Vô Tranh.
TỰ KỶ GIÁO PHÁP
1. Lập Thành Văn Tự 9 Khí của Đạo
Văn tự lập thành bái bản.
Học hành để trao giồi đức hạnh.
Xem xét cho tột cùng của chơn lý.
Ngẫm nghĩ cho ra chỗ hiệp thân.
Chăm chỉ để luyện tập thành nhân.
Ca ngợi sự quang minh của Đạo.
Phi tưởng cho tới chỗ vô cùng.
Bao la rộng lớn không còn diễn tả.
Vô tận đến chỗ miễn bàn mà lại vào thời kỳ sơ khai kế tiếp.
2. Thiên Chân - Có 7 Thời Kỳ Tu Dưỡng
Nhờ văn tự để hiểu biết.
Nhờ hiểu biết để lãnh hội.
Nhờ lãnh hội để thực hiện.
Nhờ thực hiện mà thông suốt.
Nhờ thông suốt mà Hư Vô.
Nhờ Hư Vô mà đạt Đạo.
Nhờ đạt Đạo mà thay Trời hành Đạo.
3. Hành Đạo - Lập Văn Tự
Còn nói được là còn lập văn tự, là còn đi trong cơ phổ truyền giáo hoá để độ môn sinh.
Còn nói không ra lời là đi vào chỗ tham thiền nhập định, luyện tánh, tầm lý quang minh. Khi đã tìm được chơn lý quang minh là không còn lời để nói chỗ siêu diệu của Đạo.
Vì:
Diễn giải sẽ sai.
Nghe thấy chưa chánh.
Hiểu biết chưa đủ.
Đo đường không được.
Nhận xét không thấu.
Vô tướng, phi tướng.
Chơn lý miễn bàn.
Đã đi vào miễn bàn thì ai tu nấy đạt, ai ngộ nấy biết, ai luyện nấy thông, ai học nấy hiểu chỗ quang minh. Đã thật đến chỗ minh diệu vô vi là miễn bàn.
4. Mở Sự Huyền Ẩn Của Đạo
Cánh cửa lương tâm mở ra thì truy được cái Thiên Lý gần xa huyền sáng.
Cái đức hạnh dấn thân tự học mở ra, sẽ thấy được các cảnh giới thanh tịnh.
Cái độ lượng nhân hoà từ ái mở ra, thì sẽ gồm thâu được không gian lớn rộng vào trong lòng mà xét cho thông suốt chỗ linh tâm.
Cái tánh lý huyền tịnh mở ra, sẽ kết hợp được điển quang Thiên Lý để lập đảnh an lư kết thai hành độ.
Cái linh tâm mở ra, sẽ cảm ứng được lòng Trời ban phát linh khí của Hư Vô, tự nhiên an tịnh.
Khi hiểu được Đạo Lớn.
Thì phải biết ẩn ngôn.
Các sự linh ứng cảm.
Học được và sự hiểu biết.
Phải bí mật vô vi.
Để truy tiếp tục Thiên Lý.
- Đến đây phải nhớ kỹ:
Động thì tuột - che lấp.
Tính toán thì mất - ẩn yên.
Lộ bày thì hết linh - vô vi.
Hiểu biết thì an - yên lặng.
Đủ đầy thì yên - thông suốt.
Thanh tịnh thì sáng - linh tâm.
Đạt định thì huyền - huyền ẩn.
Vô tư tự nhiên thì - hiện rõ.
Vô vi siêu nhiên thì - Lục Huệ.
Đạt Lục Huệ ra vào Sáu cõi.
Mở linh tâm lên xuống ba nhà.
Thông suốt pháp giới hồi quang phản chiếu diện mục bổn lai.
Thấu hiểu Thiên Cơ mà lại sống an nhiên với Đạo.
5. Luyện Đạo Quang Minh.
Minh được Đạo thì các linh cảm mở ra để ứng vào bộ máy huyền vi của Thượng Đế mà thấy biết để học cái khoa học siêu nhiên.
Huyền được Đạo là kết tụ tất cả các khí linh của Trời Đất vào trong Đạo, lưỡng cực Âm Dương nhị khí. Rồi hội tụ tất cả linh thể của Thượng Giới vào Kim Thân mà kết thành một Linh Thai của Đạo, an tụ ở cung Thái Cực. Luôn ở ngôi giữa hiệp lý trung dung mà an các khí Dương thuần bổ Dương, Âm thuần bổ Âm, mà kết khí linh vào lập thể.
Thể đó thuần Dương.
Thể đó thuần Âm.
Thể đó không Âm Dương.
6. Huyền Hoá
Nó đi lên thâu khí Vô Cực.
Nó đi qua trái qua phải thâu khí Âm Dương.
Nó ở ngôi giữa nắm giữ tâm Đạo.
Đức của nó hiệp vào cùng Trời Đất.
Đạo của nó hiệp vào lò lớn Vô Cực.
Nhân của nó hoà vào biển yêu từ ái.
Bi của nó sanh ra Đại Bi để cứu độ.
Trí của nó sanh ra Đại Trí để thuyết pháp.
Dũng của nó sanh ra Đại Dũng để hộ pháp.
Nó đi ra ngoài chu du Sáu Cõi học tập.
Nó đi về lò Trời để luyện Thần Quang.
Nó đi xuống Ba Nhà để phổ bá.
Hỏi nó thì nó lại vô danh.
Học nó thì phải vô vi thanh tịnh.
Hiệp nó thì phải quang minh chánh định.
7. Cõi Phi Phi Tưởng
Đạo Trời thì bao la, người ngộ Đạo thấy hình như ở trước mắt.
Tình Trời như biển lớn, người ngộ gom trọn vào trong lòng cất kỹ.
Đạo tức chủ thị
Chủ thị là tâm.
Nhãn thức tâm thông.
Nhãn thông tâm thức.
Soi đâu tỏ đó.
Truy đâu biết đó.
Học đâu hiểu đó.
Minh đâu đạt đó.
Vô vi rồi lại vô vô vi.
Hửu vi rồi lại hiển hiển vi.
Động tịnh rồi biến giải vô cùng.
Vô tư rồi lại hiện về đầy đủ.
Tâm là nhãn tạng, là Thiên Lý vô hình. Rồi trong cõi Vô Hình lại có cõi Vô Vô Hình làm chủ:
Điều hành Tam Giới.
Lãnh đạo Càn Khôn.
Có qua hết Vô Cực Hư Linh Chi Khí thì mới lộ ra một cảnh hiện hửu. Đó là một nước Trời Vô Vô Vi Huyền Huyền Ẩn, Hiển Hiển Vi Chí Linh Chí Diệu Chí Vô Tư, mà lại hiện thân rõ cả Tam Giới làm việc.
8. Hình Đồ Tam Thế
Trời Động - Đất Tịnh - Nhân Hoà.
Trời động chuyển khí,
Khí hoá vận hành,
Sanh sanh hoá hoá.
Đất tịnh yên chịu,
Lặng lẽ dưỡng nuôi,
Muôn loài vạn vật.
Người tu mới đắc,
Nhân đạo suốt thông,
Trên hoà dưới thuận.
9. Không Gian Là Đạo
Trời không gian,
Trời tròn Đạo.
Đất yên tịnh,
Đất gần Đạo.
Người thế gian,
Bởi còn gian,
Nên xa Đạo.
10. Chánh Khí Trời Đất
Hư Vô - Huyền Khí.
Thái Cực - Thanh Khí.
Lưỡng Nghi - Âm Dương Khí.
Tam Thanh - Trời Trăng Sao Khí.
Tứ Tượng - Bốn Mùa Khí.
Ngũ Hành - Ngũ Khí Triều Nguyên Khí.
Lục Đạo - Lục Mạch Thần Khí.
Thất Trùng Thiên - Thất Tình Lục Dục Khí.
Bát Quái - Bát Tiết Thời Khí.
Cửu Trùng Thiên - Chánh Khí Trời Đất giao hoà trở lại Nguyên Thuỷ.
1. Hư Vô Huyền Khí chuyển Thần Linh
Vô hửu sanh ra vật có hình
Hoá hoá sanh sanh, Không làm chủ
Sanh Trời, sanh Đất, vạn sinh linh.
2. Thái Cực là thân thể Đất Trời
Trung dung minh chánh nắm ba ngôi
Đòn cân công lý là cơ Đạo
Vũ Trụ Càn Khôn lập lại rồi.
3. Âm Dương Trời Đất chủ Càn Khôn
Phân định hai ngôi của vía hồn
Nam ở Thiên Hoàng chầu Ngọc Đế
Nữ sanh về Mẹ ở Diêu Cung.
4. Tam Thanh giáo chủ đứng ba ngôi
Săn sóc ngày đêm cái máy Trời
Coi ngó trời trăng hàng tinh tú
Vận hành luật Đạo giúp nhân loài.
5. Tứ Quý sanh ra luật bốn mùa
Đông, Tây, Nam, Bắc chuyển hườn Vô
Bốn mùa tám tiết luôn giao cảm
Định lý Càn Khôn luôn điểm tô.
6. Ngũ Đế trong coi luật Ngũ Hành
Triều nguyên năm khí hoá sanh sanh
Ngũ Hành sanh khắc luôn hành luật
Dẫn độ muôn loài cứu chúng sanh.
7. Lục Đạo xưa nay tỏ rành rành
Nhẹ lên Tiên Giới học Tam Thanh
Nặng theo Lục Đạo đi trả nghiệp
Vào kiếp luân hồi hoá chúng sanh.
8. Thất Tình Lục Dục giữa nhân sanh
Dứt khoát quay lưng Đạo mới lành
Mộng trần cháy sạch tiêu lòng dục
Trở gót hài Tiên, Đạo mới thanh.
9. Bát Công Đức Thuỷ chuyển Càn Khôn
Trận pháp Trời sanh ứng vô cùng
Trên chuyển máy Trời theo hình luật
Dưới thâu Địa Sát dạy linh hồn.
10. Chín Khí Đất Trời được hoá sanh
Chín luồng thuỷ điển độ năm hành
Pháp Trời trăm họ về an trụ
Chính Khí trong coi cơ Hoàng Vũ.
(Hết trang 12.)
(Tiếp theo trang 111.)
155. Định Quán Tâm Kinh
Kẻ muốn tu Đạo trước phải dứt bỏ cái lòng trần. Việc trần dứt hết chẳng còn động tâm. Rồi sau mới ngồi yên để xét thấu chơn tâm. Kế đến các tham lam, nghĩ xằng, trôi nổi, thảy diệt trừ hết. Đêm ngày lo công phu, phút giây không ngừng nghỉ.
Chỉ trừ tâm động, không trừ tâm sáng. Chỉ chuyên chú tâm không, chẳng chuyên chú tâm trụ.
Không ỷ lại bất cứ một pháp nào, thì mới mong đứng vững hoài hoài, tức là tập tâm pháp.
Phàm tâm luôn tranh giành. Kẻ học Đạo trừ nó rất khó, hoặc trừ không nổi. Nhưng bỏ qua như không có, ắt nó tự mất đi. Tranh giành qua lại đẻ ra trăm cái xấu.
Kiên nhẫn suy nghĩ kỹ càng mới có thể thuần thục chính chắn. Chẳng nên vội vã thâu lượm kết quả, rồi muôn ngàn đời Đạo Quả chẳng thành. Khi mình còn thiếu thanh tĩnh, thì vẻ uy nghi được biểu lộ vào trong những lúc đi đứng ngồi nằm. Trốn giao tiếp nơi ồn ào. Phải làm cho ý yên định. Cái có, cái không đều trở về cõi Hư Vô. Trốn yên, trốn động, cuối cùng cũng hiệp lại một.
Nếu bó tâm gắt quá sẽ sanh bệnh uất khí, thành điên cuồng, đó là nguyên do.
Nếu tâm bất động, phải lo thả lỏng, mau chậm đúng lúc. Luôn luôn tự điều hợp thích nghi cùng hoàn cảnh.
- Gò bó mà không trói buộc.
- Buông thả mà không động loạn.
- Ồn ào mà không đáng ghét.
- Phiền phức mà không chán nản.
Đó là chơn định.
Không tiếp được sự vui vẻ, nên sanh ra lắm chuyện. Nếu muốn một cách gượng ép sẽ sanh rối rắm.
Lấy sự không phiền toái làm nơi trú ngụ đích thực.
Gặp trở ngại phải giải quyết một cách êm xuôi.
Nếu lấy gương nước để soi ắt mọi điều hiện rõ.
Mọi phương cách muốn giải chỉ nhập định mới có thể huệ phát mau lẹ. Người trong khi tịnh chẳng nên gấp gáp, ắt làm thương tổn tới tính. Thương tổn ắt không có huệ.
Nếu như định mà không cầu huệ thì huệ mới sinh, đó là chơn huệ.
Có huệ mà không dùng tới, thật biết rõ mà như dốt, thì huệ mới hiệp về tròn sáng.
Định huệ gia tăng càng đẹp vô cùng.
Nếu trong lúc tịnh còn nghĩ ngơi vẩn vơ, quyến luyến tà khí, vấn vương thăm mối, Yêu Ma sẽ theo đó mà xuất hiện liền liền phá quấy.
Được thấy Thiên Tôn, Chân Nhân là điều tốt lành vậy. Nhưng không có ý đến lại gần các Ngài.
Trước khi định, làm sao cho tâm trống vắng, không gì che phủ.
Sau khi định, tâm rỗng rang không gì ngăn cản.
Nghiệp cũ ngày một tiêu tan. Nghiệp chướng chẳng gây thêm, không còn trở ngại, để thoát xa lòng trần thế.
Chịu khó thực hành những điều nói trên lần lần, tự nhiên đắc Chơn Đạo.
Phàm những kẻ Đắc Đạo tất có được bảy điểm như sau:
Kẻ tâm đạt định, dễ thấy các tánh trần hiện ra.
Kẻ trừ hết các thói tật kiếp trước, thân tâm nhẹ nhỏm, sảng khoái vô cùng.
Kẻ tự bồi bổ khỏi chết sớm, sẽ hồi sinh trở lại, trường sanh.
Kẻ có số mạng dài cả mười ngàn năm gọi là Tiên Nhân.
Kẻ luyện hình chất thành khí lực gọi là Chân Nhân, tức người thành Đạo.
Kẻ luyện khí thành Thần gọi là Thần Nhân, tức người đạt Đạo.
Kẻ luyện Thần làm một với Đạo gọi là Chí Nhân, tức người thành Đạo.
Sức Đạo soi càng mạnh, hoả khí càng tỏ sáng.
Tu tới mức thành Đạo trí huệ tròn đầy.
Nếu học tịnh tâm một thời gian lâu mà chưa có một chút thanh điển, tuổi tác thêm cao, thể chất suy nhược, sắc diện phai tàn, mà tự cho mình mở huệ đắc Đạo Quả, thực chẳng hợp lý chút nào. Các vị chơn tu nên nghĩ kỹ.
156. Ba Bước Thiền
Sơ Pháp Môn Thiền Học: Là phương pháp luyện khí Dương để bổ Dương. Dùng hơi thở dài để mở luồng điển Nhâm Mạch, Đốc Mạch. Khai thông khối óc, quân bình Ngũ Tạng, thanh lọc điều hoà kinh mạch.
Trung Pháp Môn Huyền Học: Là dùng hơi thở nhẹ nhàng, điều độ, cho chạy dọc theo đường Nhâm Đốc Mạch. Lấy Dương bổ Dương, lấy Âm bổ Âm, cho hai khí trong người thuần Dương, thuần Âm, tự nhiên phát huệ. Từ đó mở được Tam Thanh, Ngũ Khí, Lục Mạch, Tam Điền, mà biết được một phần Thiên Lý để vào Trung Giới học Đạo.
Đại Pháp Môn Giải Thoát: Là làm chủ hai khí Âm Dương, thuần Đạo Thái Cực. Học chỗ an lư lập đảnh, kết thai. Luyện chỗ khiếu linh, thu hút khí linh của Trời Đất để khai mở linh tâm. Biết được ngày giờ Vũ Trụ mở cửa để vào lò Trời luyện khí hoá hình, luyện hình đạt Đạo. Rồi đem ba thốn khí hiệp cùng khí hoá của Hư Vô chi khí. Biết ngày giờ vào thất để định cho có kết quả và cũng để dưỡng Thánh Thai sản thể.
Học mật ngữ để mở khiếu linh.
Học ẩn ngôn để thông suốt Trời Đất.
Tất cả đều nằm trong Khoa Học Huyền Bí của Trời.
- Hết -
(Hết trang cuối.)
(Tiếp đầu trang 109.)
154. Cơ Đại Đồng
Đạo quy lai Tam Ngươn lập lại
Trời mở cơ chọn Đại Căn duyên
Ra giáo truyền xây dựng Đồ Thiên
Đời thạnh trị Phật Tiên tái thế
Quy Ngũ Châu hiệp nhau một thể
Tam Giáo khai Đạo Học Thái Bình
Giáo môn đồ khai mở điển kinh
Ngũ giác hội Thần Linh tỏ sáng.
Chi cho tới Hư Không truyền cảm
Về đầu nguồn ngộ tánh Như Lai
Một Đạo Trời chơn lý không hai
Gốc Di Lạc tái sanh độ thế
Tái tạo lại Kim Thân linh thể
Lập ra nền công lý đại đồng
Long Huỳnh khai năm sắc Tiên phong
Hoa Thiên Mạng vào chầu Ngọc Đế
Đại Hồn Phật Như Lai chuyển thế
Hội ra thành Phật Đạo quần Tiên
Kỳ Tam Hoàng chỉnh đốn máy Thiên
Ba tiếng sấm quy lai kim cổ
Tại Hán Thất đi theo Thiên số
Đất Long Hoa bảo pháp hành y
Thiên Mạng sanh đậu Trạng văn thi
Nam Thiên mở trường thi đạo đức
Hán Thất có khoa trường của Phật
Để phong hàng đạo đức cao minh
Phán Quan cùng Tam Giáo lai kinh
Xét nhân phẩm quy hình Phật Quốc
Cơ Thiên mở chuyển cùng Trời Đất
Phong võ thay thời tiết hai mùa
Thần dân an theo mệnh Thiên Cơ
Lập lại cảnh bồng lai tại thế
Pháp Như Ý Trời khai Thánh Thể
Nước của Trời Thượng Đế thụ phong
Trời mở ra lập lại công đồng
Mở nước Phật đại đồng dân tộc.
(Hết trang 110.)
(Tiếp đầu trang 101.)
147. Nhân Hiền
Nhiều nhân sĩ ẩn mình khuất bóng
Sống vẫy vùng an định non sông
Danh ngay như bá với tòng
Thác chôn một góc núi sông bia vàng.
148. Tình Thương
Tình thương thể hiện:
Lúc gần thì an nhiên.
Lúc đến thì vui vẽ.
Lúc đi thì tha thiết.
Lúc đau thì chăm lo.
Lúc chết thì thương tiếc.
Cái mình có không biết quý
Khi nó mất thì hối tiếc.
Có nên quý, mất nên bình thản.
Có bình thản, mất nên ung dung.
Là người biết xử lý đúng việc.
Tình thương là cây thước đo lường nhân ái.
- Người có Đạo:
Thương thì bao dung.
Yêu thì quý ái.
Quý thì lễ nghĩa.
Trọng thì kính cẩn.
- Người đời:
Thương thì chiếm giữ.
Yêu thì trói buộc.
Quý thì giành giựt.
Trọng thì bợ đỡ.
149. Cách Hoá Giải
Pháp: Lấy tinh thông để giải các lý.
Lấy khí hoá để di chuyển.
Lấy thần lực để hiệp Đạo.
Đạo: Lấy đức để bao dung.
Lấy nhân để kế nghiệp.
Lấy duyên để kết quả.
Người: Lấy hiếu để đền ơn.
Lấy nghĩa để báo đáp.
Lấy trung để phò trợ.
Tâm: Lấy tánh để giao kết.
Lấy thần để tỏ sáng.
Lấy thức để hiểu biết.
Oán: Lấy thi ân để giải.
Lấy từ bi để dung chứa.
Lấy nhịn nhường để bao dung.
Yêu: Lấy vô tư để hoà ái.
Lấy thanh thản để kết hợp.
Lấy tự nhiên để hạnh phúc.
Dục: Lấy Thiên Lý để giải thoát.
Lấy kinh lý để đả thông.
Lấy pháp môn để hoá giải.
Động: Lấy thanh thản để bù đắp.
Lấy văn chương để cải cách.
Lấy vô tư để giải thông.
150. Vấn Đạo
Đừng hỏi trí, trí sẽ hỏi tâm.
Đừng hỏi tâm, tâm sẽ hỏi tánh.
Đừng hỏi tánh, tánh sẽ hỏi tình.
Đừng hỏi tình, tình sẽ hỏi dục.
Trí không trí là huệ.
Tâm không tâm là giác.
Tánh không tánh là nhân.
Tình không tình là đức.
Dục không dục là an.
Cây to, nhờ tàng rộng.
Núi cao, băng tuyết lạnh.
Biển sâu, sóng gió lớn.
Cầu Đạo Lớn, quên danh phận.
Muốn đi đến chỗ vô cùng phải biết dùng phương tiện, coi thường dư luận nhân gian, thì mới đủ bi trí dũng mà hành Đạo.
Muốn cứu độ lớn:
Xem nhẹ tình đời.
An tâm hành độ.
Khổ, khổ, khổ,
là cứu cánh của Đạo.
151. Đời Đạo Kết Thể
Đời nhờ Đạo để khai hoá.
Đạo nhờ đời để truyền nhân.
Tu nhân thì phải tích đức.
Tu chính thì phải nghiêm minh.
Tu thân thì phải có pháp.
Tu tâm thì phải tỉnh Đạo.
Tu luyện thì phải ẩn yên.
Tu sơn thì phải kết linh huyệt.
Tu thị thì phải hoà đồng.
Tu chùa thì phải bố thí.
Tu nhà thì phải khoan dung.
Tu Đạo thì phải yên phận.
Tu khôn thì phải khéo léo.
Thuyền chạy nhờ máy.
Thuyền đậu nhờ neo.
Thuyền chèo nhờ dầm.
Thuyền ngay nhờ lái.
Tu tịnh nhờ thông.
Tu thanh nhờ giải.
Tu đạt nhờ luyện.
Tu thiện nhờ căn.
Miếng lợi thường đi chung với miếng hại.
Chỗ hay thường đi chung với chỗ dở.
Người được chê cho tới cùng tận,
Lại là người được khen cho tới vô cùng.
152. Đạo Trường Sanh
Đi nhanh thì biết nhường nhịn.
Đi chậm thì biết tiến giải.
Đi bình thì biết trung dung.
Học kinh lý, phải cầu hiểu biết.
Đã hiểu biết, thì phải thực hành.
Được thực hành, phải xét cho minh.
Xét cho minh, thì làm tới chót.
Đã tới chót, thì tự hoá giải.
Được hoá giải, thì phải cải cách.
Được cải cách, thì hiệp văn minh.
Được văn minh, nên khai giáo pháp.
Được giáo pháp, cần chỗ giác ngộ.
Được giác ngộ, thì thấy khả năng.
Được khả năng, thì biết đo lường.
Được đo lường, thì biết nhún nhường.
Được nhún nhường, thì thuần mối Đạo.
Được thuần Đạo, chơn lý mở mang.
Được mở mang, thì đi cùng khắp.
Được cùng khắp, thì hiệp lòng Trời.
Được lòng Trời, thì đạt Đạo Lớn.
Đạt Đạo Lớn, thì không muốn đầy.
Không muốn đầy, thì đến vô cùng.
Được vô cùng, thì sống mãi mãi.
Được sống mãi, là Đạo Trường Sanh.
Đức tiến theo nhu.
Đạo tiến theo linh.
Nhân tiến theo lòng Trời,
Thì được Trời ân độ.
153. Nhờ Cậy Nhau
Non nhờ nước để mát lòng.
Nước nhờ non để giao cảm.
Gió nhờ nước để làm mây.
Mây nhờ nước để chu du.
Đạo nhờ đức để ban phước.
Đức nhờ Đạo để sáng chói.
Âm nhờ Dương để kết thân.
Dương nhờ Âm để sanh trưởng.
Biển nhờ sông để hiệp thể.
Sông nhờ biển để thanh lọc.
Cây nhờ đất để dưỡng nuôi.
Đất nhờ cây để bón phân.
Tịnh nhờ động để ban ra.
Động nhờ tịnh để hiệp lại.
Người nhờ đất để dưỡng nuôi.
Đất nhờ người để khai hoá.
Chồng nhờ vợ để truyền đời.
Vợ nhờ chồng để yên Đạo.
Thanh nhờ trược để kích động.
Trược nhờ thanh để hoá giải.
Đạo nhờ lý để mở mang.
Lý nhờ Đạo để khai ngộ.
Pháp nhờ luyện để phát minh.
Luyện nhờ pháp để đắc ngộ.
Thầy nhờ trò để truyền đời.
Trò nhờ Thầy để sáng Đạo.
Hạnh nhờ đức để độ lượng.
Đức nhờ hạnh để phổ bá.
Người nhờ Trời để cảm hoá.
Trời nhờ người để truyền ra.
Thanh nhờ liêm để trung chánh.
Liêm nhờ thanh để lập hạnh.
Nên nhờ hư để dạy dỗ.
Hư nhờ nên để thành công.
(Hết trang 108.)
(Tiếp đầu trang 92.)
131. An Vi
Thiên Địa an vi,
Vô vi khôi phục.
Huyền đức tỏ sáng,
Tân Dân Minh Đức.
Chánh khí hiệp về,
Thái Bình trăm họ.
132. Yên Thân
Yên cái yên thân mình,
Thân yên tráng kiện.
An cái an tâm mình,
Tâm yên thánh thiện.
Người mà có xác thân tráng kiện, lương tâm thánh thiện, thì họ hành Đạo vì tâm tự nguyện, bất vụ lợi.
133. Đạo Dụng Đức
Chánh đức quân minh.
Rộng đức dung chứa.
Dư đức bố thí.
Đủ đức an phận.
Thiếu đức tu luyện.
Hành đức độ tha.
Toàn đức hiệp Đạo.
134. Chánh Được Đức
Chánh được đức:
Quân thần công lạc.
Thiên hạ âu ca.
Thái Bình trăm họ.
135. Đức Được Mở Rộng
Đức rộng thì dung chứa những cái người đời không dung chứa nổi, đó là nhẫn nhịn để đạt Đạo.
136. Khí Chuyển
Động được thần,
An được Đạo.
Tịnh được thần,
Yên được Đạo.
An Đạo, thần chuyển.
Yên Đạo, tâm giao.
137. Văn Minh Của Đạo
Đời sống bình an,
Hoà bình khôi phục.
Đời sống an nhiên,
Thái Bình lập lại.
Đạo đức thuần phát,
Trộm cướp tự diệt.
Luân lý khôi phục,
Tệ đoan tự tán.
Con người văn minh,
Thì hết đấu tranh.
Bổng lộc dư giả,
Thì hết tôi gian.
Nhân đức mở rộng,
Tà khí dang xa.
138. An Đạo
Tịnh được khẩu,
Chơn khí đầy.
Chơn khí đầy,
Tâm được an.
Tâm được an,
Trụ được Đạo.
Trụ được Đạo,
Thông kinh mạch.
Thông kinh mạch,
Nhâm Đốc chuyển.
Nhâm Đốc chuyển,
Cơ thể động,
Tiến hoá vô cùng.
139. Đạo Tịnh
Dương tiến Dương.
Âm tấn Âm.
Bình thì trụ.
Hoà thì giải.
Tịnh thì thanh.
Giải thì thoát.
Định thì huệ.
Lọc thì trong.
Chuyển thì sáng.
Truy thì hồi.
Động thì tuột.
Hiểu thì mất.
Muốn thì mê.
Biết thì ngủ.
Tham thì mờ.
An thì tỏ.
Yên thì ngộ.
Đến chỗ không.
Về chỗ có.
Lớn thì biến.
Nhỏ thì ẩn.
Thật vô tư.
Thật phẳng lặng.
Thật miễn bàn.
Thật không tên.
140. Trung Đạo
Trên không đồng, mà đồng.
Dưới không xứng, mà xứng.
Ở giữa lặng yên, không yên.
Sáng không sáng, mà huyền.
Tối không tối, tịnh thanh.
141. Đạo Di Chuyển
Đi không thấy hình.
Về không thấy bóng.
Bàn chỗ lý sống,
Thấy toàn tử sanh.
Bàn chỗ vô sanh,
Vô vi an tịnh.
Đã an tịnh thì miễn bàn.
142. Thiên Lý
Định cái chơn thần,
An cái tánh khí,
Thì gom được Đạo.
Đạo hiệp tâm trung,
Tự do Đạo chuyển.
Còn ôm phàm tâm,
Đạo tự nó biến.
Phàm ý phát sanh,
Vọng tâm dấy loạn,
Thần thức mê muội,
Có vào tịnh cũng
vô bổ, vô ích, phí công.
143. Thiên Tâm Sanh Đạo
Thiên Lý đã sanh
Tâm an bình lặng
Cũng đừng hốt hoảng
Sức hút vô cùng
Nhẹ đến không trung
Cảm giác mất hết
Đạp gió đè mây
Vô vi huyền pháp.
144. Nước Cam Lồ - Tiên Đơn
Cam lồ phát sanh
Nuốt vào trong lành
Du dương sanh hoá
Mùi thơm khắp cả
Chí Hư Chí Linh
Thánh Đạo trong mình
Tiên đơn nuôi xác.
145. Thông Suốt
Bốn phương phát đạt
Tám tiết tỏ ra
Thân pháp chia ba
Gồm thâu một thể.
146. Đạo Giải Thoát
Đạo Lớn vô hình.
Đức Lớn vô tướng.
Nhân Lớn vô danh.
Đạo hiệp Đạo - Vô Hình.
Đức hiệp Đạo - Vô Tướng.
Nhân hiệp Đạo - Vô Danh.
Đạt được Đạo Lớn thông suốt cõi Vô Hình.
Đạt được Đức Lớn thông suốt cõi Vô Tướng.
Đạt được Nhân Lớn thông suốt cõi Vô Danh.
Thông suốt được Đạo
Thường truy mệnh lý
Học chỗ vô hình
Từ bi ứng thí.
Nắm được mệnh lý
Thì tìm tướng số
Hiểu chỗ huyền cơ
Máy Trời hiện rõ.
Biết Đạo không lộ
Thiên Lý tự về
Biết Đạo tiết lộ
Thiên Lý tự che.
Thông Đạo suốt lý
Thông lý ngộ kinh
Thông kinh khai mạch
Thông mạch giải thoát.
(Hết trang 100.)
(Tiếp đầu trang 85.)
114. Đạo Binh Gia
Đạo trong văn, an định sơn hà.
Đạo trong võ, giữ an bờ cõi.
115. Văn Võ Đạo
Văn là anh.
Võ là em.
Văn an dân thạnh trị.
Võ yên định sơn hà.
Văn võ song toàn,
Thông suốt đạo đức.
Trong văn đạo, yên dân.
Ngoài võ đức, giữ yên bờ cõi.
Trên thuận Thiên Lý.
Dưới hiểu lòng dân.
Dù không trị thiên hạ tự yên.
Dù không độ, mến nhân họ phục.
Dụng nhân vô địch.
Dụng văn tải Đạo.
Dụng võ an ninh.
Dụng đức bình trị.
116. Tứ Đại Ơn
Ơn Trời Đất.
Ơn vua.
Ơn Tổ Quốc
Ơn đồng bào.
117. Tứ Đại Nghĩa
Trung với vua - Nghĩa quân thần.
Hiếu với cha mẹ - Nghĩa phụ mẫu.
Tín với bạn - Nghĩa bằng hữu.
Nhân với vợ - Nghĩa gia đình.
118. Tam Đại Bất Hiếu
1. Không tu thân, thân không tu sẽ đoạ vào Địa Ngục.
2. Không nhận ơn sanh thành là coi rẻ Đạo Trời Đất.
Đã mất Đạo thì không còn chỗ đứng trong Tam Giáo.
3. Không sanh con nối dòng sẽ bị tuyệt tự giòng họ và đồng bào.
119. Tứ Đại Bất Nghĩa
1. Đối với Trời - Có Đạo không học.
2. Đối với vua - Không trung chánh.
3. Đối với người - Tín nghĩa không giữ.
4. Đối với bạn - Lấy oán trả ơn.
120. Trọn Nghĩa
1. Với Trời - Có Đạo thì cầu học.
2. Với tổ quốc - Sanh như tướng tử như Thần.
3. Với người - Nhân từ tín nghĩa.
4. Với bạn - Lấy ơn giải oán, oan nghiệp tự tháo mở.
121. Thánh Đạo
Thánh dụng Nhân - Thánh Nhân.
Nhân dụng Thánh - Thánh Đức.
Đức dụng Thánh - Thánh Đạo.
Đạo dụng Thánh - Thánh Ân.
Đã dụng tới Thánh Ân là dụng tới lòng từ bi của Thượng Đế.
122. Đạo Tu Nhân, Nhân Tu Đạo
Tu Đạo - Luyện đức.
Tu đức - Luyện nhân.
Tu nhân - Luyện thân.
Tu thân - Luyện khí.
- Khí có hoà, tâm mới yên.
Thân được yên nhân đạo mở.
Nhân đạo mở đức năng hành.
Đức năng hành thành Đạo vậy.
123. Hiệp Nhân Đạo
Thấy được chỗ sáng,
Học được văn minh.
Thấy được chỗ tối,
Thì tu thì sửa.
Sửa đến chỗ cùng của chơn thiện mỹ là sửa đến gốc.
Học đến chỗ thông suốt là hiệp văn minh của Trời Đất.
124. Đạo Hiệp Đạo
Lưỡng đức hành nhân.
Lưỡng non thành núi.
Lưỡng mộc thành lâm.
Lưỡng thuỷ thành giang.
Lưỡng khí thành mây.
125. Nhân Đạo
Đạo vì nhân mà phổ.
Nhân vì Đạo mà tu.
Tu tới chỗ không tu là yên.
Nhân tới chỗ tròn nhân gọi là hiền.
Sống yên là người hiền.
Tròn nhân thì hiệp Đạo.
126. Độ Lượng
Tha người là đức độ.
Thương người là từ độ.
Quý kính người là minh độ.
Người có lỗi muốn được mình tha.
Người thức tâm muốn được mình độ.
Khi đã hiểu nhau thì trở thành tri kỷ.
127. Nhân Linh
Đạo trong người, chí linh chí thiện
Đạo trong Thiên, chí hiền chí Thánh
Đạo trong đời, chí đức chí thượng.
Thượng đức dân an.
Đạo đức văn minh.
Thiện đức dân tin.
128. Uy Tín
Dân tin nhờ trí tín.
Văn minh nhờ đức linh.
Dân an nhờ Thánh Hiền.
Chỉ có bậc Thánh Hiền ra đời thì:
Mới khai sơn phổ hoá.
Mới yên lòng người cầu Đạo.
Mới thuận với Trời Đất.
Mới hiệp với sĩ hiền.
Mới phò người trung nghĩa.
129. Đức Lớn
Đức lớn nhờ minh Đạo.
Đạt Đạo nhờ minh đức.
Có minh đạo đức:
Thuần phong được lập lại.
Mỹ tục được phục hồi.
130. Nhân Ái
Nhân tròn Thiên Tâm sáng.
Nhân từ Thiên Tâm bi.
Nhân đức Thiên Tâm rộng.
Nhân trí Thiên Tâm huệ.
Nhân hoà Thiên Tâm khai.
Nhân ái Thiên Địa an.
(Hết trang 91.)
(Tiếp đầu trang 74.)
84. Linh Hiển
Lòng Trời lồng lộng
Tuy không hình bóng
Hiển linh không động
Ban khắp Càn Khôn.
85. Âm Dương Kết Tựu
Âm gặp Dương thì kết.
Trai gặp gái thì theo.
Hình gặp bóng thì trói.
Nhân gặp quả thì hiệp.
86. Âm Thanh Phát
Sắc gặp thanh thì kêu.
Âm gặp thanh thì phát.
Nhịp gặp điệu thì ra.
Tâm gặp lý thì hoà.
87. Nhân Đức Kết Giao
Luân gặp lý thì hiệp.
Đức gặp độ thì vui.
Nhân gặp hoà thì ái.
Độ gặp lượng thì nhàn.
88. Truyền Nhân
Thánh gặp nhân thì truyền.
Pháp gặp Tiên thì luyện.
Nhân gặp pháp thì giải.
Đạo gặp đức thì hoà.
89. Giao Hiệp
Gió gặp mây thì kết.
Nước gặp không khí thì thăng.
Mặn gặp khô thành muối.
Suối gặp sông thành dòng.
90. Duyên Độ
Nhân gặp duyên thì độ.
Hoà gặp nhẫn thì ưa.
Chồng gặp vợ thì theo.
Duyên gặp nợ thì giải.
91. Trí Huệ Phát
Trí phát sáng thì thanh.
Huệ phát Đạo thì thành.
Khí phát linh thì đạt.
Tâm phát ngộ viên giác.
Đường mở rộng để đi.
Đạo mở rộng dân trí.
Đức mở rộng văn minh.
Nhân mở rộng trật tự.
92. Đạo Đức Ở Chỗ
Đạo đức ở chỗ sáng thì sang.
Đạo đức ở chỗ tối thì hèn.
Đạo đức ở chỗ trung dung thì hợp.
Đạo đức ở chỗ cao thì khiêm nhượng.
93. Cách Hoá Giải
Biết chỗ tối thì sáng.
Thấy chỗ tối thì sửa.
Minh chỗ tối thì giải.
Giác chỗ tối thì cải.
94. Tu Hoài
Sáng ở trên thì tối ở trên.
Sáng ở dưới thì tối ở dưới.
Sáng ở giữa thì tối trên dưới.
Vậy chỗ nào là chỗ không sáng tối để tự chữa?
95. Đường Trí Cạn Sâu
Dò được sâu thì thấy được xa.
Dò được cạn thì thấy chỗ nông.
Biết được rộng thì thấy thông suốt.
Biết chưa đủ thì thấy bướng bỉnh.
96. Ánh Sáng Thiên Không
Thiên Không là ánh sáng
trong tất cả ánh sáng.
Nhưng lại rất linh diệu.
Nhưng thanh tịnh trong sáng.
97. Nguồn Đạo Hư Không
Hư Không, Chơn Không:
Đổ mãi không đầy.
Rót mãi không hết.
Che mãi thường sáng.
Chưa biết tên gì.
Thanh vô chỗ sanh.
Tịnh vô sanh tử.
Động sanh Trời Đất.
Hiện diện mọi nơi.
Ẩn yên một góc.
Thu các hình sắc.
Chứa muôn vạn vật.
98. Dưỡng Đạo Hư Không
Nhìn được Hư Không bằng huệ tâm.
Biết được Hư Không bằng tỏ ngộ.
Đến được Hư Không bằng Kim Thân.
Luyện ở Hư Không bằng huệ mạng.
Hiểu được Hư Không bằng cảm ứng.
Nghe được Hư Không bằng truyền tâm.
Nói ở Hư Không bằng cảm nhận.
99. Ứng Cảm Đó Đây
Ngồi đó biết đây
Ngồi đây biết đó
Mà ôm vò võ
Mà quý mà thương.
Như bạn thân thương
Như ở chung trường
Như sanh chung mẹ
Như một thánh đường.
Đó cười đây vui
Đây học đó dạy
Hiệp trong tâm Thầy
Đó lại là đây.
Đây chuyển tâm qua
Đó hoà chơn giải
Đó dạy mệnh lý
Đây giải huyền vi.
100. Tam Lực
Thần đầy bớt ngủ.
Khí đầy bớt ăn.
Tinh đầy bớt dục.
101. Tứ Dụng
Bớt nói sáng tâm.
Bớt ngủ sáng đức.
Bớt ăn sáng Đạo.
Bớt lo sáng thần.
Thần đã sáng thì dễ hiệp Đạo.
102. Linh Dụng
Mạnh thì làm như yếu.
Yếu thì làm như yên.
Biết yếu, biết yên, thì an được thân.
Biết mạnh, biết yếu, tự mình biết trị.
Che các mạch là ẩn Thiên Cơ.
Lấy chỗ yếu là sử dụng đức.
Đức rộng thần linh.
Đức sanh thạnh trị.
103. Thanh Đức
Nước thanh nhờ lọc.
Người thanh nhờ luyện.
Đạo thanh nhờ huyền.
Đức thanh nhờ yên.
Bốn đức được yên,
Thái Bình trăm họ.
104. Tứ Tầm
Quốc loạn tầm lương tướng.
Gia bần tầm phu thê.
Ly gia tầm con thảo.
Thất thời tầm tri kỷ.
105. Tứ Dụng
Phú tầm quý được thanh.
Giàu tầm sang được của.
Người tầm nhân được hiền.
Đức tầm nhân được Đạo.
106. Tứ Thánh
Thánh gặp sĩ thì triết.
Đạo gặp đức thì trao.
Nhân gặp hiền thì dạy.
Dũng gặp mãnh thì dùng.
107. Tứ Giải
Minh gặp huệ thì mở.
Đạo gặp pháp thì hành.
Trược gặp thanh thì giải.
Đục gặp trong thì lọc.
108. Tứ Chuyển
Sáng gặp tối thì cho.
Tối gặp huyền thì giải.
Cứng gặp lửa thì chảy.
Nhà gặp nền thì vững.
109. Siêu Nhiên
Gió thổi vốn không có âm ba,
Gặp kết hợp mà tạo thành tiếng.
Điển quang có không luồng tư tưởng,
Gặp Âm Dương mà sanh hình tướng.
110. Ngọc Trời
Con người lúc chưa có thân:
Trong ngoài không có tánh,
Trên dưới luôn trống rỗng,
Tâm pháp tự viên dung.
111. Phàm Thức
Con người lúc có thân:
Hình tướng thường che đậy,
Nên có chỗ ẩn núp,
Nên sanh chúng-sanh-tánh.
112. Vào Đời
Khi sanh được làm người:
Nhận quyến thuộc làm vui,
Mới sanh ra nhân nghĩa,
Mới sanh ra phân biệt.
113. Biết Hành
Trời sáng để tỉnh đời mê.
Đạo thức để tỉnh người mê.
Cái chưa thấy biết đó là chơn thức.
Cái biết mà trông thấy đó là còn mê.
(Hết trang 84.)
(Tiếp theo trang 63.)
66. Bổ Mệnh Lý
Trung khí bổ lý, thuần mệnh.
Đạo lý bổ đức, thuần tánh.
Nhân luân bổ trung nghĩa, thành nhân.
67. Tu Tiên Gia
Tiên Gia tu tánh, luyện mệnh, kết thai, lấy trung khí tụ ứng, trung dung thuần Đạo.
68. Tu Đạo Gia
Phật Gia tu luyện cái độ lượng thuần tánh, nên lấy nhập định tham thiền để tỏ ngộ.
69. Tu Thần Thánh
Nhân tu bổ trung nghĩa thành Thần.
Thần đắc nhân tâm tu bổ thành Thánh.
70. Tiên Gia
Lấy Đạo làm huyền,
Linh thể huyền đồng.
Luyện khí trung hoà,
Nên hiệp Trung Đạo.
Trung Đạo là cái lý,
Âm Dương là cái dụng.
Lý mà không trung dung,
Dụng không được trung chánh.
Hành Đạo như luyện mình.
Giữ Đạo như giữ cọp.
Không luyện mình, thì thần hư.
Không giữ cọp, thì tánh phản.
Vì trong tánh có ba chất:
Nguơn Thần
Nguơn Khí
Nguơn Tinh.
Thần lộn trong tánh thì phả lấp.
Khí lộn trong tánh thì phân biệt.
Tinh lộn trong tánh thì bao che.
Vì vậy, Tiên Gia khi luyện Đạo luôn giữ ba điều cần yếu:
a. - Không nhận việc.
- Không tham cầu.
- Không luyến tình.
b. - Không phân biệt.
- Không dự đoán.
- Không thiện cảm.
c. - Không quá khứ
- Không tương lai.
- Không hiện tại.
A: 1. - Không nhận việc:
Thân được an.
Tự do qua lại.
Đứng chỗ trung dung.
2. - Không tham cầu:
Yên cái Đạo.
Thần nhờ yên, Đạo thanh.
Đức nhờ yên, đức tịnh.
3. - Không luyến tình:
Lòng dục diệt.
Thất Tình tự giải.
Thiên Lý hiệp về.
B: 1. - Không phân biệt:
Không ngã tướng.
Thiện ác không sanh.
Vô vi an tịnh.
2. - Không dự đoán:
Nhân quyền yên.
Đạo mình, mình tỉnh.
Đạo người, người giác.
3. - Không thiện cảm:
Diệt ma chướng.
Phật sanh diệt Phật.
Ma sanh diệt Ma.
C: 1. - Không quá khứ:
Diệt luân hồi.
Vô minh tạo ra,
Ngộ Đạo hoá giải.
2. - Không hiện tại:
Không mê thân.
Tứ Đại hiệp thành.
Quy Không trực chỉ.
3. - Không tương lai:
Trừ hình tướng.
Còn các hình tướng,
Còn tâm chúng sanh.
71. Đạt Đạo
Đạo đạt được:
Tâm thức, thần thông.
Cảm ứng đến chỗ hiệp nhứt.
Quy cái tâm không không, làm bổn tâm.
Quy cái Thánh hiệp nhứt, làm căn mệnh.
72. Tâm Không
Tâm không, Đạo trống.
Ngộ không, Đạo thông.
Không cái tâm để đầy nguyên khí.
Trống cái Đạo để tròn căn mệnh.
Đến cũng trung dung huyền giải.
Đi cũng trung dung huyền hoá.
Xuống cũng trung dung hiệp nhân.
Lên cũng trung dung hiệp Thiên.
Hiệp cũng trung dung tự cảm.
Khắc cũng trung dung tự giải.
Đạo đức sáng nhờ tâm thanh tịnh.
Đạo đức thức nhờ tâm an định.
Không nhận việc tâm mình nhàn rỗi
Thân được an trí được tịnh nhàn
Tự do qua lại khang trang
Trung dung hiệp nhất càng sang hơn người.
Không tham cầu vía hồn lui tới
Yên Đạo rồi về được Đại La
Thần yên thanh Đạo minh xa
Đức yên nhờ tịnh, đức qua Thiên Đài.
Không luyến tình trần ai không ái
Dục diệt rồi Tứ Đại giai không
Thất Tình Lục Dục quán thông
Lục Căn thức Đạo hai Không hiệp về.
Không phân biệt đường về hiệp một
Ngã tướng tan ngại chướng tiêu tan
Không tâm ngã tướng tâm an
Vô vi an tịnh vui bàn Tiên Gia.
Không dự đoán Đại La vô thức
Luôn giữ lòng bình đẳng nhân quyền
Đạo mình, mình tỉnh là Tiên
Đạo người, người giác không phiền tới ai.
Không thiện cảm không gây hứa hẹn
Ma chướng sanh chặn ngã đường đi
Phật sanh tự diệt mà truy
Ma sanh cũng diệt, mình đi một mình.
Không quá khứ minh minh diệu diệu
Tâm luân hồi dùng pháp đốt tiêu
Vô minh tự nó xoay chiều
Ngộ Không hoá giải phiêu diêu nhẹ nhàng.
Không tương lai Niết Bàn vô tướng
Sắc tức không, không thật vô vi
Có không hình tướng còn thi
Chúng-sanh-tâm phải diệt đi mới về.
Không hiện tại mùi mê khử hết
Không mê thân mê phận mê danh
Hửu vô tứ giả hiệp thành
Quy Không đạt pháp mới thành Tiên Gia.
73. Cửa Đạo
Cửa thanh tịnh phàm qua không lọt
Mà Thánh Tâm quay gót nhẹ nhàng
Quy Không đạt Đạo sống an
Ai người minh triết vào hàng Tiên Gia.
Đài Linh Tiêu huyền huyền diệu pháp
Về nơi đây Bạch Hạc rước đưa
Là người hành pháp Đại Thừa
Kim Tiên Ngọc Phật nắng mưa chẳng còn.
Đi cho thấu mới thông đại lộ
Tu luyện cho tới chỗ vô vi
Tự mình đốt đuốc từ bi
Hư Không trọn Đạo dự thi Đạo Trời.
Cho nên Tiên gia xưa nay thường: An - Yên - Tịnh.
An cái thân để bổ Tinh.
Tinh đầy bớt dục
Lục Dục tự tiêu
Thất Tình tự diệt.
Yên cái tâm để bổ Thần:
Thần sáng bớt ngủ
Tự giải ma chướng
Cám dỗ tự diệt.
Tịnh cái tánh để bổ Khí:
Khí đầy bớt ăn
Tham cầu tự diệt
Tứ giả quy Không.
74. Xá Lợi
Chơn lý có ba gom lại một
Chơn Dương có bảy gom thành đôi
Lưỡng hà hai tám gom thành một
Tâm ở ngoại thân đạt chủ ngôi.
75. Âm Dương Thuần
Hai tám hoà đôi tròn nhật nguyệt
Thiên Không hai khí đã thuần rồi
Thái Dương giáng hạ sanh nên Đạo
Kim cổ lập đời xứng hoà đôi.
76. Triệu Hồi
Bạch Kinh Thượng Đế
Có lệnh triệu hồi
Về đến vị ngôi
Kim Thân sáng chói.
77. Vô Vi
Ở chỗ thanh tịnh,
Không còn kinh lý.
78. Hửu Vi
Ở chỗ kinh lý,
Không còn an tịnh.
Không còn an tịnh,
Mất lý siêu nhiên.
79. Kinh Điển
Kinh là lý hữu vi,
Tại còn mượn văn tự.
Điển là khí hoá vô vi
Tu phải có công thức
Thì mới hiệp được điển.
Hiệp được điển thì phải học kinh điển giới, mới mở được giới định huệ.
80. Pháp Thân
Đi bằng Pháp Thân,
Đó là diệu tướng.
Nghe bằng Hư Không
Nghe được tiếng Trời.
81. Tiếng Trời
Trời nói không tiếng nói,
Mà Thánh Nhân chép lại.
Văn ngôn không văn tự,
Là viết theo tiếng Trời.
82. Huệ Tâm
Nhìn trong sự bình thản,
Mà thấy các Chư Thiên
Đó là huệ tâm sanh,
Tự nhiên nhận cảm ứng.
83. Huyền Hoá
Tâm thanh trí tịnh,
Sanh được Thần giác.
Đạo yên trí mở,
Hoá giải kinh lý.
(Hết trang 73.)
(Tiếp đầu trang 52.)
54. Tự Kỷ Giáo Pháp
Chưa minh thì oán,
Ngộ rồi là ơn.
Từ đó kết duyên,
Trở thành tri kỷ.
Đến lúc ngộ Đạo phải dứt lòng tư dục, chẳng nên luyến tiếc tình ái, thì mới thoát ra khỏi chúng sanh tánh.
55. Chẳng Luyến Tình Dục
Đạt Đạo huyền vi chẳng luyến tình
Luyện thành Chơn Đạo kết tâm linh
Luyến tình còn vướng mùi tục luỵ
Khó thoát trần mê tánh chúng sinh.
Đạt Đạo thì tâm Đạo phải linh
Thông xa thấy trước sự quân bình
Hồi quang phản chiếu vô vi ảnh
Tỏ sáng Hư Vô một viễn minh.
Dục chẳng sanh, linh thật là linh
Ra vô tự tại giữa thinh thinh
Sáng tròn chân khí Thần Quang hiện
Hiệp Đạo Thiên Không điển hoá hình.
Thánh thể tự do khắp Ba Nhà
Tu vầy mới thật Đạo Tiên Gia
Tu nầy mới thật Chơn Linh Phật
Đắc Đạo Như Lai tình tự xa.
Kêu khách tu chơn chớ luyến tình
Giải thông kinh lý tự mình linh
Thoát vòng tục luỵ chúng sanh tánh
Để Đạo trong mình đắc Thánh Linh.
Đến đây lấy Âm Dương bổ khuyết.
1 - Thân bịnh dùng chơn khí để bổ.
2 - Tánh bịnh dùng tâm lý để bổ.
3 - Nhân quả bịnh dùng bố thí để bổ.
Kế đến:
Chơn khí bổ Âm,
Âm tấn, mệnh thọ.
Chơn khí bổ Dương,
Dương tiến, Đạo thức.
Từ đó sanh ra:
Âm Dương khí thuần,
Hoá sanh Thánh Thể.
Thể ấy thuần Dương.
Thể ấy thuần Âm.
Thuần tâm là Phật.
Thuần tánh là Thánh.
Nên gọi Thánh Đạo.
Nên đắc Tam Muội.
Liên Hoa Diệu Pháp,
Tam Muội Chơn Hoả.
Đến đây:
Trời gọi đắc Pháp.
Phật gọi đắc Thánh.
Tiên gọi đắc Nhân.
Nhân gọi đắc Hiền.
Kế đến:
Chuyển Tinh thành điển.
Chuyển Khí thành hoá.
Chuyển Thần thành Tiên.
Chuyển thân thành pháp.
1. Chuyển Tinh thành điển:
Tinh ba sáng suốt
Hiệp với muôn sao
Thành ra thuỷ điển
Thánh linh ẩn hiện
Ra vào Tam Giới
Cam Lộ dương sanh.
2. Chuyển Khí thành hoá:
Khí hoá Hạo Nhiên
Là khí Tiên Thiên
Hiệp thành khí thể
Tạo thành linh mệnh
Về chỗ không tên
Xuống lên cõi Đạo.
3. Chuyển Thần thành Tiên:
Thần Thánh Hậu Thiên
Tiếp khí Tiên Thiên
Để sanh linh thể
Vào lễ Ngọc Đế
Vào cung Diêu Trì
Tiên Thiên mệnh lý.
4. Chuyển thân thành pháp:
Hiệp Đạo hườn Hư
Linh pháp hoá giải
Lúc nghỉ lúc tịnh
Học phép hoá hình
Cầm sổ Thiên Lý
Hoá duyên hành Đạo.
56. Tam Muội Thuần Dương
Thuần Dương Đạo sáng
Chơn Đạo đạt thanh
Đạo gọi hiệp Trời
Đạo gọi hiệp mệnh.
Thuần Dương Đạo Huyền
Trời gọi Kim Tiên
Huyền pháp vô biên
Ra vào Vũ Trụ.
Trên thông Hoàn Vũ
Đạt Đạo Tam Thanh
Linh khí hiệp thành
Vô sanh vô tử.
Trên thông Thiên Số
Dưới lập tử vi
Đạo từ đó đi
Nhân từ đó hiệp.
Đạo muốn ngộ phải đi tìm chơn tâm trước nhất.
Ngộ được tâm,
Chứng được Đạo.
Luyện Đạo huyền đồng
Đêm để không không
Ngày luôn trống trống
Trên dưới không động.
Định trong thức thiền
Yên trong siêu nhiên
Hư Vô lồng lộng
Đời sống an nhiên.
57. Tu Dưỡng Pháp Thân
An dưỡng tinh thần
Ôn dưỡng tâm lý
Định khai thượng trí
Thiên Lý mới thông.
Thần sáng Hư Không
Nhìn thông Tam Giới
Hư Vô nhuần gội
Thâu khí hiệp thân.
58. Pháp Thân Huyền Hoá
Ngủ nghỉ nó khởi
Như thể chiêm bao
Lúc tịnh nó hiện
Như cảnh Thiên Tiên.
Hay lúc định thiền
Tuỳ duyên siêu xuất
Đến khi thiền giác
Bát đạt tứ thông.
Chuẩn phê hội đồng
Nhân Ông làm chủ
Chơn Linh hội đủ
Viên giác Đạo thành.
Nắm được lý số
Thông được huyền cơ
Tỏ được mệnh lý
Kết được thể Đạo.
Huyền biến tinh thần
Huyền học pháp giới
Huyền biến cảnh vật
Huyền đồng Hư Vô.
59. Chơn Khí Hiệp Khí Hoá Của Hư Vô
Một bầu khí hoá
Như các Hà Sa
Âm tịnh Dương hoà
Thân định thần động.
60. Bỏ Bớt Để An
Bỏ văn tỏ lý
Bỏ lý ngộ tánh
Bỏ tánh hoà tâm
Bỏ tâm hoà khí
Bỏ khí huyền đồng
Bỏ hết không không
Diệu tướng sống lại.
Chơn tâm tịnh, chơn thần động động.
Tâm thân an, tánh hiệp không không.
Chơn thần linh, chơn lý huyền đồng.
61. Cách Hoá Giải
Lý vì sự xuôi thuận,
Lòng vì dục nên vọng.
Muốn nắm được cái lý,
Thì cầu sự chơn giải.
Dập tắt sự phân biệt,
Thì lòng dục được an.
Khi lòng dục được an,
Thì chơn lý tỏ sáng.
Đến đây:
Chơn Dương động, hiệp Hư Vô.
Chơn Âm tịnh, bổ linh mệnh.
Chơn Dương đi để huyền hoá điển quang.
Chơn Âm kết để hiệp nguồn suối Đạo.
Dương thường huyền thường sáng.
Dương thường sáng thường thanh.
Âm thường trụ, thường kết.
Âm thường kết, thường tịnh.
Đạo ở trong Dương, Đạo sáng.
Đạo ở trong Âm, Đạo huyền.
62. Dương Tánh
Nhất động nhất chuyển
Chuyển đến vô cùng
Hiệp khí trung dung
Thì vào Chơn Đạo.
63. Âm Tánh
Thường yên tự tĩnh
Để kết thai hình
Huyền hoá Chơn Linh
Khai tâm mở trí.
Cho nên:
Dương bổ thần quang,
Âm bổ khí thể.
Dương bổ khí quang,
Âm bổ Ngũ Tạng.
Khí Dương bổ thần,
Thuần Dương hiệp Đạo.
Khí Âm bổ khí,
Khí hoá hườn Vô.
64. Dương Thanh
Dương thanh thần sáng
Nắm lấy Thiên Cơ
Thông suốt đạo đức
Hiệp một thiên chân
Thiên nhiên Trung Đạo.
Dương thuần:
Tu tịnh chơn giải
Trí huệ viên thông
Pháp giới thông suốt.
Âm thuần:
Thánh thể khai sanh
Hiệp căn hành Đạo
Nhuần thấm Thánh Ân.
Dương bổ đạo lý,
Âm bổ mệnh lý.
Dương bổ khí trung,
Âm bổ Tiên Thể.
65. Âm Dương Bổ Lý
Dương lấy trí tuệ để mở mang.
Âm lấy ngũ sắc để kết thể.
Dương lấy Ngũ Khí để triều nguyên.
Âm lấy Ngũ Đức để giáo dạy.
Dương lấy Trung Đạo để hoá sanh.
Âm lấy cái Tứ Đức để bổ khuyết.
Dương lấy cái Thiên Lý để chứng tâm.
Âm lấy cái mệnh lý để ngộ tánh.
Dương là khí
Đến rồi đi
Đi rồi về
Về thì hiệp.
Âm là sắc
Đến rồi kết
Kết lại thành
Thành hình tướng.
(Hết trang 62.)
(Tiếp đầu trang 44.)
41. Truy Cho Cùng
Nước có lớn ròng,
Đời có thạnh suy.
Lòng nhân truy cho cùng,
Rồi mới bàn nghị luận.
Luật của Âm Dương là cái lý trung hoà. Khi nào tinh thần đạo đức được đi lên cao thì mới vượt chỗ trung hoà mà vào chỗ thuần Dương đạt Đạo.
Còn làm việc với con người là làm việc với thời tiết. Phải biết chỗ biến đổi của nó để bù trừ cho thích hợp. Nếu không biết chỗ này thì thường ôm quan niệm cứng ngắt cho nên dễ bị gãy đổ.
Lý cương nhu có dạy:
Vật cứng sẽ gãy.
Cây già sẽ chết.
Nên hiểu được chỗ suy kỹ nghĩ cho cùng, rồi mới bàn vào việc nghị luận đại mệnh.
Còn gặp hàng hứa nhiều, nói dễ là hạng khó tránh dễ tầm, già cay trẻ đắng, thì miễn bàn vào việc tu chính nhân tâm.
42. Hương Vị
Hoa còn có hương vị thơm xa.
Người phải có nhân hoà từ ái.
Đức phải có thanh nhã khiêm cung.
Nhân phải có hiền hoà độ lượng.
43. Nương Tựa Vào Nhau
Đất nhờ vào nước để làm thành phân.
Đạo nhờ lý để giác trí tuệ.
Nhưng cái gì dùng cũng phải có căn bản. Chưa tìm ra chỗ căn bản mà dùng, sợ e có hại nhiều hơn được lợi.
44. Xét Xa, Truy Cho Tới
Biết được xa, truy cho tới.
Hiểu được rộng, xét cho cùng.
Biết xa mà không truy cho tới là cái biết của lý lẽ, thiếu thực hành.
Hiểu rộng mà không xét cho cùng tột thì sự việc dễ bị phán đoán một chiều, thành ra biết rộng mà đi trong sai lầm.
45. Xét Cho Cùng Tận
Học Đạo Lớn là trung dung, nên cần luyện tánh trung dung.
Đức lớn tuy bủa cùng khắp mà coi chừng chỗ hang tối, giếng sâu.
Đã biết Đạo Lớn là trung dung mà mình không chịu tập tịnh tu, dưỡng tánh tình cho ôn hậu, thì mình là người có lý thuyết suông, còn bên trong vô mùi, vô vị, không Đạo.
Còn bố thí lớn là để cho đức hiếu sinh đi vào trong nhân sanh đồ khổ. Nhưng cũng nên coi xét người để mình cộng tác, không khéo họ sẽ mượn thế cầu thân làm việc riêng cho chính họ.
46. Dư Được Đức
Ân xá bố thí.
Lấy núi đắp hồ.
Biết dụng nhân nghĩa.
47. Đủ Được Đức
Đời sống an phận.
Đạo sống an nhiên.
48. Thiếu Đức
Ra công học tập.
Ra công tu luyện.
Ra công tiết kiệm.
49. Hành Đức
Hành được đức:
Thí ngôn,
Thí pháp,
Thí phương tiện.
50. Toàn Đức
Trên thiên hạ,
Vẫn khiêm nhường.
Dưới thiên hạ.
Vẫn an vui.
Vui với cái đủ mà Trời phú cho.
51. Đạo Gia Có Dạy
Phàm Nhân tự tỉnh thì minh.
Thánh Nhân tự cảm thì thức.
Đạo Nhân tự cảm thì hành.
Hiền Nhân tự cảm thì bố thí.
Đến đây mới học giới định huệ.
Lòng thông lòng là giới.
Tâm thông tâm là định.
Trí thông trí là huệ.
1. Lòng thông lòng là giới.
Trong không động tâm.
Ngoài không động tình.
Không Đạo không tiếp.
Vô Đạo tự giới.
2. Tâm thông tâm là định.
Trên không cầu Phật.
Dưới không cầu thầy.
Tâm luôn thanh tịnh.
Hư Vô Đại Định.
3. Trí thông trí là huệ.
Thiên chân cảm ứng.
Thông suốt Hư Linh.
Ngộ Đạo trong mình,
Chơn Thần khai huệ.
Đến đây Đạo chuyển tầm người có duyên.
Hửu duyên gieo giống xuống,
Trời Đất sẽ sanh trưởng.
Vô duyên không có giống,
Vô giống tức vô tông.
52. Hội Tụ
Biển Đạo tuy lớn,
Có duyên tự tầm đến.
Thuyết pháp tuy khó hiểu,
Người ngộ sẽ thấu suốt.
Chơn lý không ngoài tánh,
Người nghe tự tỏ ngộ.
Tỏ ngộ tự mình hành,
Thiên chân vô hình ảnh.
Hư Không sanh Thái Cực,
Huyền Khí hiệp Nhứt Nguyên.
Không Không Thiên Địa chủ,
Bát tiết tứ thời thông.
Yểu yểu minh minh
Hoảng hốt Trời sanh
Huyền huyền xám xám
Tịnh tịnh thanh thanh.
Hoá hoá sanh sanh
Thiên Địa lập thành
Sắc không không sắc
Mà sanh vạn vật.
53. Đốn Pháp
Nguồn phát ra căn
Căn nhận ra gốc
Nếu êm phăng phắt
Vốn thật vô căn.
Giống gặp mưa pháp
Tự nó học được
Tự nó tạo phước
Nên được trường sanh.
Không giống vô sinh
Dù có ngâm mình
Ở trong biển pháp
Mà vẫn vô minh.
Có người nghe kinh
Cả cuộc đời mình
Trồng trong ao pháp
Chưa được hồi sinh.
Phật đã giảng kinh
Giống thiện không sinh
Tại người không giống
Nên chẳng sanh tông.
Đạo ở Hư Không
Giống thiện trong lòng
Pháp ta tưới xuống
Tự nó sanh tông.
Ở tại trong lòng
Nếu không có Phật
Nó thường làm giặc
Phá kẻ từ bi.
Có giống vậy thì
Tại sao không nở
Cả đời ngâm ở
Ao pháp Phật Môn.
(Hết trang 51.)
(Tiếp đầu trang 41.)
37. Pha Chế Chịu Đựng
Trước phải nhịn để học nhục.
Được học nhục phải kiên nhẫn.
Được kiên nhẫn phải biết nhường.
Quân tử: Học nhịn để yên phận.
Học nhục để chịu đựng.
Học nhẫn để thắng mình.
Học nhường để thông suốt.
Đạo của người quân tử phải biết:
Tuỳ thời biến diệt.
Tuỳ ngộ an nhiên.
Nhịn, nhịn, nhịn - Việc ác không đưa đến cho mình.
Tha, tha, tha - Cùng tột của cái tha không còn tự đắc.
Lo, lo, lo - Nhiều quá thân tâm sẽ mất tự do.
Nhẫn, nhẫn, nhẫn - Vạn ách thiên tai tùng thử tận.
Hiu, hiu, hiu - Thiên tai vạn loại nhất thời tiêu.
Hưu, hưu, hưu - Cái thế công danh mất tự do.
Nhịn được sự sỉ nhục lớn là tạo đức lớn.
Chịu nhục đến mất sỉ diện mà vẫn khoan dung đó là hàng đại đức mới làm nổi.
Nhẫn cho tới chết luôn vinh dự của mình thì mới thật sự hồi sinh chơn lý.
Nhường cho tới chỗ cùng đường bí lối thì sẽ khai ra được một đường sinh lộ Tiên Thiên.
38. Đạo Người Quân Tử
Bậc quân tử nghiêm thân,
Trước phải biết trị mình.
Bậc quân tử:
Tự trị thân mình mà quần thần được tu chính.
Lập đức cho mình thì thiên hạ được tự trị.
Đạo quân tử phải biết không chạy theo lòng tư dục của mình để đủ sự minh tâm mà săn sóc thiên hạ. Người mà làm được như vậy thì thiên hạ cảm đức, nhân phục, tà khí dang xa, Thái Bình khôi phục.
39. Bậc Quân Tử
Học Đạo không phân
Hành Đạo không tranh
Thưởng thí đến cùng
Lòng nhân bủa khắp
Đức rộng bao trùm
Tài trí nhún nhường
Ra đời thạnh trị
Lập lại Thái Bình
Trên thờ Đạo Trời
Dưới thuận lòng người
Qua lại thông suốt
Tới lui thông thả
Đứng chỗ trung dung
Đi chỗ huyền biến
Học hết các pháp
Làm khắp thiên hạ
Mà để tự nhiên
Như không có làm
Đạo người quân tử.
Hạnh đức lớn quang minh.
Thông Đạo Lớn an ninh.
40. Bậc Đại Trí
Kẻ sĩ giỏi múa kiếm, không thấy trước đường gươm.
Người có đạo đức lớn, không thấy họ ra quân.
Người đã lào thông binh lược, đánh một nước cờ đối phương không đỡ nổi. Vì họ nghĩ ra được nhiều nước liên hoàn kết lại, chứ không phải chỉ có một nước.
Còn đã thật có Đạo, họ chỉ dùng thuyết pháp giảng Đạo, mà lòng người được vui thuận, giải bỏ thù oán, cởi mở oan gia.
(Hết trang 43.)
(Tiếp đầu trang 32.)
25. Tu Chứng
Tu mà chưa luyện: - còn mê.
Tu mà chưa tịnh: - cầu an.
Tu mà chưa giải: - không thoát.
Tu mà không ngộ: - cố giữ,
Tu mà không thông: - củng cố địa vị.
Đã củng cố địa vị, tự nhiên linh Đạo bị mất.
26. Tu Hành
Tu mà chịu học thì hay.
Tu mà chịu luyện thì giải.
Tu mà chịu tịnh thì thanh.
Tu mà chịu khó thì dũng.
Tu mà thông suốt thì bi.
Tu mà an phận thì yên.
Tu mà biết đủ thì tiến.
Đã tiến được đạo đức thì không sợ luân hồi.
27. Tứ Diệu Đế
Thần nhờ mạnh làm sức lực.
Thánh nhờ sáng làm trí tuệ.
Tiên nhờ sướng làm chu du.
Phật nhờ hiền làm đạo đức.
Cho nên có câu:
Mạnh như Thần.
Sáng như Thánh.
Sướng như Tiên.
Hiền như Phật.
28. Tứ Luân Xa
Đạo nhờ lực - chuyển hoá Càn Khôn.
Đạo nhờ sáng - vô thinh chi giáo.
Đạo nhờ sướng - vô sanh vô tử.
Đạo nhờ hiền - hoàng dương độ thế.
29. Đạo Giải Thoát
Tại sao gọi giải thoát?
Yên cái thân mình là giải.
An cái tâm mình là thoát.
Yên cái Đạo mình là giải.
An cái Đạo người là thoát.
Cho nên:
Yên thân mình bịnh tật không sanh.
An tâm mình tư dục tự thoát.
An cái Đạo trong mình thì lược giải được kinh điển, an phận thủ thường.
An cái Đạo của người thì không bày điều thị phi để họ tự tỉnh.
30. Đạo Tĩnh
Đạo thường thanh tự tĩnh.
Đạo thường tĩnh tự yên.
Đạo yên thì huyền hoá.
Đạo sáng thì giác ngộ.
Huyền hoá là pháp thân.
Giác ngộ là thông suốt.
31. Tam Đại Hiếu
Tu thân giải thoát: - Hiếu với Trời.
Hiền nhu nhân ái: - Hiếu với Cha Mẹ.
Sanh con nối dòng: - Hiếu với tổ tông, hiếu với đồng bào.
32. Chánh Đạo
Chánh Đạo không ở ngoài tâm.
Đức độ không ở ngoài thân.
Chánh là sáng.
Độ là rộng.
Đã sáng rộng thì như mặt Trời.
Lúc mọc thiên hạ tự tỉnh.
Lúc lặng thiên hạ tự yên.
Trời không dạy mà Tiên Phật giáo hoá.
Đất tự yên mà Thần Thánh tự tỉnh.
Cho nên:
Học theo Trời,
Thì không lời.
Vô thinh chi giáo.
Học Tiên Phật,
Học biết để làm.
Hửu vi chi giáo.
Học Thần Thánh,
Học làm tròn,
Nhân, trung, hiếu, nghĩa.
Học được nhân, trung, hiếu, nghĩa, thì đã đi đường Thần, Thánh, Tiên, Phật.
Vậy tại sao phải học thanh tịnh vô vi?
Bởi vì Đạo Trời là Hư Không. Càng thanh tịnh thì đạt chỗ Không Hư. Nên dùng yên tịnh soi xét, thấu được lẽ huyền diệu vô vi thì nhân đức mới hiệp về Đại Đạo.
33. Chánh Nhân
Chánh được tâm thì thần sáng.
Mở được trí thì huệ giác.
Tâm được chơn chánh như một vị minh vương an định được sơn hà bờ cõi, giáo dạy được muôn dân minh đức.
Mở được trí thì thấy xa biết rộng đến chỗ nhìn vào đâu thì thông suốt chỗ đó nên gọi là huệ giác.
Quân minh thần sáng.
Nhân linh dân tin.
Một vị vua hiền đức thì cái nhân được bủa khắp thiên hạ. Một vị lương tướng sáng suốt thì cái nhân hiền động đến lòng Trời. Nhờ vậy mà thiên hạ kỉnh phục, xuôi thuận.
Thánh đức văn minh.
Đạo đức nhân tin.
Một vị Thánh Vương có đức độ thì lập ra một nước văn minh Phật Quốc.
Còn hàng Đạo Đức được ôn hoà liêm chánh thì sẽ tạo được nền trị an lâu dài.
Chánh nhân thuận thời.
Chánh thân thuận mệnh.
Người chánh nhân quân tử mà ra làm việc là thiên hạ sẽ thuận lòng, dân cũng theo về. Người chánh đức tu thân ra làm việc, là các chơn sư hiền tài đều ra phò trợ. Nên được thuận mệnh của Trời.
34. Đạo Của Người Trên
Người lớn:
- Thường dùng khoan hồng để tha cho người không hiểu biết.
- Còn phải lấy khoan dung để giải chỗ phải quấy sai lầm.
- Rồi phải dùng sự khoan thai để dung chứa cái độ lượng lớn.
35. Thẳng Mực Tàu Đau Lòng Gỗ
Người độ lượng lúc nào cũng có mực thước. Nhưng nhờ bao dung để thực hiện lòng từ bi.
Sức mạnh nhân nghĩa bao trùm khắp mà phải cần để ý chỗ tiểu nhân lợi dụng.
Xướng một bài ca làm vui tất cả.
Khen một lời khen làm mát dạ.
Tiếng pháo tay cần phải có lúc hoan hô.
Tướng lãnh giỏi cần phải có thưởng thí.
Cho hạ quan được cơ hội lập công.
Cho thiên hạ thi nhau hành nghĩa.
Lấy cái sáng của nhân tài mà dạy người thiên hạ.
Lấy cái tài của hiền sĩ để an lòng dân.
Lấy cái đạo đức lớn cho nhân gian tu dưỡng.
Đó là cách thiên hạ tự trị thiên hạ.
Đó là đèn thiên hạ soi sáng thiên hạ.
Đó là đường lớn cho thiên hạ tự đi tới.
Việc thiên hạ hãy giúp thiên hạ trị. Còn Đạo Trời chỉ hiệp có một mà soi sáng cho cả nhân loại, rồi nhân loại tự sáng. Đây là đường chánh đức quang minh. Đây là Đạo của người quân tử.
36. Cương Giải
Kỉnh người lớn để dưỡng đức.
Trọng người nhỏ để dưỡng Đạo.
Biết đến chỗ cùng tột,
Mà lại sống an nhiên.
Hiểu đến chỗ vô tận
Mà hài hoà trẻ nhỏ.
Nói một lời văn thơ,
Thấy được chỗ sâu rộng.
Thuyết một thời pháp lý,
Nhuần gội đến cây cỏ.
Mở ra một công thức,
Phản chiếu chỗ linh tâm.
Viết một bài văn luận,
Chỉ rõ chỗ kiến tánh.
Uống một ly trà ngon,
Thấm hết cả miệng mũi.
Nghe được chỗ sáng suốt,
Thấy xa được ngàn dậm.
Dựng cột lớn giữa nhà,
Thấy rõ hết các cột nhỏ.
Động một cây cột nhỏ,
Chuyển hết cả cái nhà.
Đứt một đầu ngón tay,
Linh cảm đau khắp cả.
Một lời nói yêu thương,
Hạnh phúc thành phép lạ.
(Hết trang 40.)
(Tiếp đầu trang 23)
17. Quay Vào Trong
Người học Phật tu thân là mong tìm cái nghe ở trong mình, cái thấy ở trong mình, và quên bỏ cái nghe thấy của người khác. Cho dù có nghe thấy một vị Phật đang giảng dạy cho người khác, mà không phải việc của mình, thì vẫn không nghe theo. Hễ nghe theo tai mắt là còn chấp vào vọng tướng. Cho dù người đó có đắc Đạo mình cũng thầm mừng cho họ.
Còn quay vào trong là tìm cái đắc ngộ cho mình, thì cái thấy biết đó có giá trị, nên tìm đường về hiệp một với Chơn Ngã. Cũng không nên lấy sự hiểu biết của ngươi khác, của sách vở không căn bản, mà giảng giải theo nó thì càng làm cho tâm của mình chạy theo thanh sắc. Thà đừng làm thế mà hãy để cho nó yên ổn hành Đạo. Còn đã làm theo sách vỡ thì khi nó đã chạy theo, thì không thể nào kềm lại được.
Từ xưa nay nhiều vị bị mất Đạo là do bởi không biết cách hoá giải nó. Người gặp trường hợp này thì lập chí quay vào bên trong tự soi thấu chơn tâm. Khi tâm đã sáng thì đã tìm ra linh tâm, tự nó hoá giải.
Tĩnh Đạo thường xuyên,
Tầm cái Chơn Thiên.
Quy tâm hiệp thức,
Thì xa thanh sắc.
Sức mạnh chế vật,
Hỗn độn tự nhiên,
Sáng tỏ huyền huyền,
Chân Thiên hiệp Đạo.
18. Linh Tâm Lập Thế Quân Bình
Bình được tâm là an trị được nội loạn.
Tịnh được tánh là thấu rõ máy huyền cơ.
Tâm là lý vô hình nên siêu thoát an tịnh.
Tim là lý hửu hình nên sanh động loạn.
Quân bình được tâm là quân bình được cái tâm linh ánh sáng huyền diệu. Nó là khí linh của Trời Đất kết thành một vòng tròn Thiên Cang Vô Cực bao phủ bộ đầu của người tu hành đạt Đạo, nên gọi nó là linh tâm, là tâm lý của con người.
Linh tâm đạt Đạo Lớn,
Thông suốt lý Hư Vô.
Soi tỏ các sự vật,
Hồi quang không ngơi nghỉ.
Bình tâm tự an trị,
Hiệp được nguồn pháp thuỷ.
Hoà trong Đại Mệnh Thể,
Hoá giải được phiền não.
Con tim là lý hữu hình, vì nó sống chung với cơ thể, kết thân với Lục Phủ Ngũ Tạng. Nên con người còn nó thì sống, con người chết nó hoại.
Còn chơn tâm là điển quang siêu hình chơn thức, nó vốn là:
Viên ngọc vô sanh.
Kim thân của Phật.
Linh thể của Trời.
Linh tâm của Đất.
Chơn tâm của con người,
Là ánh sáng của Tam Giới.
19. Học Đạo Siêu Nhiên
Dưỡng Đạo thì tịnh tâm.
An thần thì tịnh tánh.
Tồn tinh thì an mệnh.
Học Đức Lớn của Trời bao khắp.
Học Đạo Lớn của Trời - sáng mãi.
Học Nhân Lớn của Trời - bố thí mãi.
Truy ra được nguồn cội bản thể,
Thì lui về chỗ ẩn yên để định.
Học được cái lý siêu nhiên,
Lập chí chán đời để cầu tiến.
Nhìn được cái chỗ vi diệu,
Tầm đất linh để hiệp khí hoá.
Mở được đường Đạo trong tâm,
Nhập định để hiệp vào chỗ linh tâm.
Thuần được Âm Dương khí hoá,
Thì biết an phận để dưỡng Đạo.
Buông bỏ xa hoa, tránh xa trục vật,
Học tập sống đời sống an bình vô ngã.
Vật có bổn lai, người có số mệnh,
Trời sanh thì siêu nhiên đã có cách dưỡng.
Thành bại hoại không, Thiên Lý tuần hoàn,
Tuy xa không thấy mà đều có Tam Giới sắp đặt vị trí.
20. Luyện Kim
Đạo nhân không được nhồi,
Không được gọi đạt Đạo.
Thiên nhân không được nhồi,
Không được gọi là bậc chí nhân.
Hiền sĩ mà không được nhồi,
Không được gọi là chí sĩ.
Thánh nhân không được nhồi,
Không được gọi là chí Thánh.
Nhân đức không được nhồi,
Không được gọi là chí hiền.
Trung nhân không được nhồi,
Không được gọi là ái quốc.
Vàng nhờ đốt để phân kim.
Đạo nhờ nhồi để viên mãn.
Đắc nhứt, gồm thâu Đạo vào lòng Trời.
Đạt một là bậc chí nhân quân tử.
Chết theo sống mà đổi số.
Đạo theo đức mà đổi mệnh.
Nhân theo duyên mà kết hợp.
Đạo theo pháp mà hoá duyên.
Nhờ hoá duyên mà tầm ra chân tướng của thiên chân.
Nhờ hội ngộ mà truyền đời hướng Đạo.
21. Học Đạo
Học Đạo:
Nhờ văn tự để đả thông.
Nhờ kinh dịch để mở mang.
Nhờ hướng đạo để tỏ ngộ.
Khi đã tỏ ngộ thì cần nên bỏ ba việc:
1. Bỏ lòng tham cầu.
Thì trí mới yên,
Đạo tâm mới tĩnh.
2. Bỏ sự hiểu biết.
Vì càng hiểu biết,
Thì càng rối tâm.
Tâm đã rối, thì Đạo bất sanh, trí bất sáng.
Từ đó sanh ra phân biệt phải quấy.
Đã đi vào phân biệt phải quấy thì càng xa Đạo.
3. Bỏ sự mê tín:
Tâm mê thì vọng.
Đạo mê thì cầu.
Trí mê phán xét.
Ý mê tham luyến.
Thân mê hưởng lạc.
Bỏ được ngủ mê thì tâm mới sáng.
Tâm đã sáng thì không còn mê nhiều tính ít, thì mới gần được Đạo.
22. Cải Tiến Lương Tâm
Học Đạo cải tiến Tam Tâm cho nó chuyển thành Thánh Tâm.
Tham - cầu chứng đắc.
Sân - muốn kết quả.
Si - mê danh Phật.
Giải được tham thì tâm an.
Giải được sân thì trí định.
Giải được si thì thần sáng.
Tâm an lạc là nền tảng của đạo đức.
Trí tịnh là người biết an phận.
Thần sáng là thông suốt được đạo đức.
Tâm an là gốc tu hành
Trí sáng là được tâm lành phát ra
Thần thông đạo đức nhân hoà
Sống vui với Đạo trong lò Càn Khôn.
Đức cao nhất là độ lượng.
Đạo cao nhất là thông suốt.
Nhân cao nhất là dung hoà.
Dung hoà tới chỗ chí trung là đạt Đạo Trung Dung.
Thông suốt tới chỗ cùng tột là an vi.
Độ lượng tới chỗ đại từ đại bi là tự tại.
Trời lấy Đất làm nền để sanh hoá.
Đất lấy Trời làm nhà để dưỡng sinh.
Người lấy Đức làm nền để dụng võ.
Người lấy Đạo kỉnh tôn để tu dưỡng.
Đức thường tu thường tỉnh.
Đạo thường luyện thường minh.
Tỉnh cái đức, minh cái Đạo.
Sống an nhiên, lòng tự tại.
Nhìn thiên tượng biết ý Trời.
Nhìn phong võ đón Thiên Lý.
Nhìn nhân sự đón tương lai.
Nhân trị nhân, bất trị tâm.
Ngôn tỉnh ngôn, bất trị tánh.
Vốn người là vậy.
Vốn đời là vậy.
Vốn nhân gian là vậy.
23. Cầu Đạo
Còn ôm công khanh, danh phận mà đi cầu Đạo, thì người ấy chỉ cầu cái Đạo Hửu Vi.
Tâm đã chứa hửu vi,
Thì khó cầu chơn lý.
24. Đạo Ở Chỗ
Hay thì học.
Dở thì bỏ.
Học cái hay để cầu tiến.
Bỏ cái dở để giải độc cho tâm mình.
Vì: Học Đạo là trung dung,
Nên: Bất khả bất tín, bất khả tận tín.
Khổ thân thì trí tuệ mở.
Khổ đời thì kinh nghiệm sâu rộng.
Khổ tôn giáo thì mới quy tâm giải thoát.
Đạo ở trong tâm, giải thoát được nó là bậc đại trí.
Đạo ở trong tâm mà luận về tim, là ôm Đạo Hửu Vi.
Vì tim là vật hửu hình. Tâm là lý siêu hình, đã vô hình mới hiệp Đạo Hư Vô.
(Hết trang 31)
(Tiếp đầu trang 17.)
14. Cái Lý Của Đạo
Luân lý Ngũ Kinh, Tam Thân, Tứ Diệu Đế, tuy không học nhưng khi mở ra thì có cả.
Thiên hạ là con của Trời, vạn vật cũng là con của Trời, nên mọi sự đều có sắp căn, đặt mệnh. Người học Đạo biết đến đây thì thấy tự do vô tư bình thản. Vì thấy rõ cái chơn lý Nhất Nguyên, tuy không mà có là vậy. Lúc đó chỉ biết quay vào:
Nội quán để ứng linh tâm,
Ngoại cảm để ứng vạn vật.
- Vạn vật đều có tình nên sanh chúng-sanh-tánh, đi theo Thất Tình Lục Dục mà cảm ứng.
- Vạn vật đều có linh tâm nên hưởng được linh khí của Trời để mà sống.
Âm Dương cấu kết nhân duyên,
Tánh tình cấu kết nhân quả.
Âm khí đi theo Dương mà kết thành hình tướng.
Dương hoà cùng Âm mà kết thành nhân loại.
Nếu Dương đi có một mình mà kết, thì gà trống có sanh được trứng nhưng không ấp ra con được.
Còn Âm mà tự kết thể như gà mái tuy sanh ra trứng không có trống, dầu có ấp cũng không sanh gà con.
Cho nên xưa nay Trời Đất lấy hai khí hiệp với linh tâm mà sanh dưỡng vạn vật, biến hoá muôn phương, sanh sản vạn loại.
15. Ngũ Hành Dưỡng Đạo
Đất có Ngũ Châu,
Trời có Ngũ Đức.
Hai khí Thiên Tiên Ngũ Hành và Hậu Thiên Ngũ Hành mà sanh ra.
Trời sanh Ngũ Khí,
Đất sanh Ngũ Sắc.
Hai khí này đem xuống chia cho nhân loại đồng kết thân lập mệnh.
Trời sanh ra Ngũ Luân,
Đất sanh ra Ngũ Tạng.
Cái khí của Trời để giáo hoá nhân loại.
Cái sắc của Đất để dưỡng nuôi nhân loại.
Trời sanh ra Ngũ Hành,
Đất sanh ra Ngũ Ấm.
Khí Trời sanh ra năm Hành: Kim Mộc Thuỷ Hoả Thổ, để rèn luyện vạn linh.
Đất kết ra đầu mình, hạ bộ và tay chân, để cho vạn vật kết thành thân, sanh ra đời trưởng thành khôn lớn.
Trời sanh ra Ngũ Linh,
Đất sanh ra Ngũ Cốc.
Trời sanh ra huyền linh: Bùa, Phép Thuật, Độn Giáp để dạy hàng Địa Tiên luyện Đạo.
Đất sanh ra Ngũ Cốc, Ngũ Đậu, Ngũ Kim v.v....
Trời hiệp năm Hành thành khí,
Đất hiệp năm Hành thành sắc.
- Trời hiệp vượng khí của Đất là Thán Khí; khí của nước là Thuỷ Khí; khí của lửa là Hoả Khí; khí của ngũ kim là Kim Khí; và khí của mộc thành Mộc Khí, để luân chuyển bốn mùa, hoá sanh tám tiết, để nuôi người và vạn vật.
- Đất hiệp với năm Hành sanh ra Ngũ Quan là mắt để thấy, tai để nghe, mũi để ngửi, miệng lưỡi để ăn nói, bộ óc để hiểu biết. Từ đó nhân loại được bộ máy thiên nhiên do Trời Đất cấu kết lại thành thân.
Trời lấy Ngũ Khí để hoá hoá sanh sanh.
Đất lấy Ngũ Quan để học hỏi không nghỉ.
Trời lấy Ngũ Khí sanh ra người và thú cầm.
Trời hoá thể từng khí sanh ra từng vật.
Như là:
- Mộc Khí sanh ra cây cùng khắp Vũ Trụ,
- Thuỷ Khí sanh ra nước, nước kết với Mộc Khí mà sanh ra dưỡng khí để nuôi nhân loại.
- Thổ Khí kết hợp với Mộc Khí và Thuỷ Khí mà sanh ra phân bón mầu mỡ để dưỡng vạn vật.
- Hoả Khí là lửa trong lòng đất. Hoả diệm sơn đốt nước thành hơi, bốc lên làm mây. Đốt mộc để chia mầu mở cho Đất.
- Kim Khí là do Ngũ Kim để nhờ lửa dưới đất đốt và nung cho Ngũ Kim già giặn, trưởng thành, rồi lại đốt cho mỗi loại phân thành hầm mỏ là vậy.
Đất kết thành Ngũ Quang cho con người học tập cho đến nới, để nghiên cứu ra khoa học kỹ thuật. Rồi đem các nguồn tài nguyên của Trời Đất mà xài vào những công việc xã hội và phục vụ nhân sanh đồng an hưởng cái của Trời Đất ban phát ra để kiến trúc thành một nền văn minh hạnh phúc.
Vào đời Thượng Cổ nhân loại coi như ruột rà thân quyến, huynh đệ như thủ túc, tình thâm đầy đủ. Cho nên có phước thì đồng hưởng, có hoạ thì đồng chia.
Thế giới thời đó quả địa cầu chỉ có một châu, gọi chung lại là nước Tân Dân Minh Đức. Sau đó chia ra hai châu vì lòng dân có thanh có trược. Lòng dân lúc này sanh tham cầu nên tách ra, một khối vẫn giữ Đạo nguyên thuỷ của Trời Đất là sống đại đồng, còn một nhóm khác lấy vật chất làm thân quyến để chiếm giữ. Từ đó mới sanh ra chánh tà.
Thượng Đế vì sợ nhân loại sanh khôn mà không có Đạo sẽ tiêu diệt lẫn nhau. Cho nên Thượng Đế chia trái đất ra làm năm mảnh, gọi là Năm Châu hiện nay. Con người đời nay văn minh, chế ra các phương tiện di chuyển như tàu thuỷ, máy bay, làm cho thế giới gần nhau.
Sau này khi thời Thượng Ngươn được lập lại thì Thượng Đế sẽ cho Năm Châu hiệp lại thành một Nhà Lớn của nhân loại. Thế giới đại đồng, Thái Bình trăm họ.
16. Tỏ Ngộ Thần Minh
Khi kết các kinh lý là để cho thần được minh. Thần có được mới hiểu thấu chơn lý. Hiểu rồi thì chơn giải ra cho môn sinh đồng hiểu và đồng học, đồng hành.
Đồng hành thì hiệp các Tiểu Ngã vào chung một Chơn Ngã thì mới thật sự quang minh chánh đại.
Còn giữ tư tâm là Tiểu Ngã chưa hết, lòng Đạo chưa định. Kẻ mà Đạo chưa định mà đi giảng kinh thuyết pháp thì kẻ ấy chưa hiểu của kinh lý. Như cái hồ cạn, tát một lát sẽ hết nước, vì vậy nó sẽ bày ra gốc cỏ, lộ chỗ nước động bùn dơ làm ô uế mối Đạo.
Còn bậc liễu ngộ chỗ hoảng hốt mà kết thân nơi huyền huyền để luyện tánh, thông pháp Vô Hư của lò Trời, biết truy tới nguồn cội của thiên chân, hoà vào trong Đại Thể của Vũ Trụ, nắm vững được Đạo Trung Dung, tiến Dương tiến Âm. Tới được đó, thì khi đi phổ hoá như mang theo cái biển Đạo bên mình giảng hoài sẽ không hết. Như mang theo nguồn pháp thuỷ cho mãi vẫn còn đầy.
Thuỷ tựu băng sơn,
Hoả nằm trong núi.
Đến chỗ vô hình,
Lui về vô tướng.
Thông một pháp, khai sáng các giáo pháp,
Đạt một lý, ứng biến vô quái ngại.
(Hết trang 22.)
(Tiếp đầu trang 13)
11. Thiên - Địa - Nhân Kết Linh
Đạo hiệp một thì minh.
Đức hiệp một thì linh.
Nhân hiệp một thì thành.
Tâm hiệp một thì thanh.
Tánh hiệp một thì tịnh.
Tinh hiệp một thì sáng.
Thần hiệp một hườn Hư.
Khí hiệp một kết thể.
Tinh hiệp một thông suốt.
Dương hiệp một thành Dương Quang - Thần quang.
Âm hiệp một thành Huyền Quang - Diệu Tướng.
Mô Ni Châu hiệp một thành Xá Lợi Phật - Chơn Linh.
Tam Thanh hiệp một thành Tam Hoa Trụ Đảnh.
Ngũ Hành hiệp một thành Ngũ Khí Triều Nguyên.
Lục Đạo hiệp một thành Lục Căn thanh tịnh.
Ngũ Khí hoá thể ra Ngũ Ngươn, Ngũ Đức, Ngũ Ấm, Ngũ Hành, Ngũ Dục.
Tam Hoa hoá thể thành Tam Thanh, Tam Giáo, Tam Tinh, Tam Điền, Tam Thốn Khí.
Tứ Tượng hoá thể thành Tứ Diệu Đế.
Tứ Quí, Tứ Đại giả hiệp thành thân.
Tứ Đổ Tường, Tứ Đức, Tứ Ân, Tứ Dụng.
Lục Đạo hoá thể Lục Căn, Lục Trần.
Thập Nhị Hiền Thánh, Lục Khí, Lục Phủ, Lục Thông, Lục Thân, Lục Đạo luân hồi.
12. Luyện Linh Tam Thể
Đạt Đạo Lớn Trời Đất hoan hỉ.
Đạt Đạo Lớn Trời Đất chung thuỷ.
Đạt Đạo Lớn Trời Đất bố thí.
Đạo linh nhờ luyện.
Đức linh nhờ chuyển.
Nhân linh nhờ huyền.
- Đạo linh đi khắp năm giới Ngũ Châu là nhờ vào cái khí linh thiêng vận chuyển.
- Đức linh là nhờ trồng vào tâm thức của nhân sanh một giống lành vô giá.
- Nhân linh là người biết luyện pháp môn huyền công đạt Đạo.
- Trời linh là người tu luyện được một vòng tròn Thiên Cang như một cái vòng bằng hào quang bao phủ bộ đầu.
- Đức linh là nhờ người tu khai mở được Ngũ Tạng, hiệp lại thành một vòng tròn bao quanh cơ thể.
- Nhân linh là nhờ ba luồng Thần Khí Tinh hiệp lại theo phương pháp huyền công mà khai mở luồng hào quang chạy từ trung tim bộ đầu xuống lỗ rún qua xương cục lên hiệp tích tới xoáy óc rồi hiệp trung tim bộ đầu thành ra một luồng hào quang tròn đứng.
Cho nên gọi:
Thiên quy thanh,
Hiệp Thiên Cang.
Địa quy thanh,
Hiệp huyền giải.
Nhân quy thanh,
Hiệp nhân hoà.
13. Đạo Âm Dương
Đạo Nhân lấy tịnh để giao cảm.
Tiên Nhân lấy tịnh để luyện đơn.
Thánh Nhân lấy tĩnh để thông suốt.
- Đạo Gia lấy tịnh để giao cảm cùng Trời Đất mà tri cái Thiên Lý vô vi chí linh chí diệu.
- Tiên Nhân lấy tịnh để kết lý Âm Dương, điều hoà khí hoá, mở linh tâm để học phép Tiên.
- Thánh Nhân lấy tĩnh để khai tâm linh, mở trí tuệ, viết kinh, bàn Đạo, luận thi.
Trời trong Đất đục.
Trời động Đất tịnh.
Trời thường trong nên được thanh sáng.
Đất nhờ đục nên sanh ra huyền khí.
- Trời nhờ tánh Dương động nên làm ra khí hoá Hạo Nhiên mà bay cùng khắp.
- Đất nhờ tịnh nên hút vạn vật có hình có sắc lại với nhau để kết thành Vũ Trụ.
Tiến được Dương thì an được Đạo.
Tấn được Âm thì kết Thánh Thai.
Dương động nên biến hoá vô cùng.
Âm tịnh nên ngưng kết không nghỉ.
Trời lấy Đất để làm nền.
Đất lấy Trời để làm nhà.
Trời Đất lấy nhân hoà để làm cột.
(Hết trang 16.)