Đệ tử xin phép được post lên những trang kinh đầu tiên của quyển MINH ĐẠO CHƠN KINH của ĐỨC PHẬT THẦY VÔ DANH THỊ.
Mười lăm năm về trước, không thể nào tả được niềm hạnh phúc của đệ tử khi có được cơ duyên cầm trong tay cuốn kinh "Minh Đạo Chơn Kinh" này. Đệ Tử đã đọc một mạch từ đầu đến cuối, lòng hân hoan, nước mắt tuôn tràn vì hạnh phúc. Cho đến bây giờ, thỉnh thoảng mở ra đọc lại vẫn thấy rất hay. Một quyển kinh hay như vầy, đệ tử không nên giữ đọc một mình, mà nên chia sẻ với mọi người, hy vọng sẽ có ai đó có duyên đọc được nó.
Theo thời gian, sách cũng đã dần cũ đi, có lẽ đây là lúc đệ tử nên đánh lại quyển sách này, hy vọng có Đạo Hữu nào đó có thiện tâm, sẽ in ra nhiều bản, để cho chính mình chiêm nghiệm, hoặc chia sẻ với mọi người, để lập thêm công Đức cho chính mình, cũng như là giúp cho Kinh Sách Thái Bình của Đạo Trời ngày càng hưng thịnh.
Đệ tử xin phép mỗi ngày đánh vài trang cho tới khi đến hết trang cuối của quyển sách.
Đệ tử yêu kính Ngài - Đức Thầy Vô Danh Thị.
(Bắt đầu trang 1.)
THÁI BÌNH
THI VĂN
TÂM LINH ĐẠO HỌC
MINH ĐẠO CHƠN KINH
LỜI TỰA
Minh Đức Khai Tâm
Đạo Mở Giáo Pháp
Chơn Lý Đốn Ngộ
Kinh Phật Ngộ Không.
Chơn Đạo là Vô Tư. Người chí nhân không thiện không ác mới đem Đạo Vô Tư của Trời mà hướng độ nhân sanh, và để tu dưỡng tánh linh của mỗi người thành một Nhân Hiền Thánh Triết của Đạo Gia. Rồi mỗi người hướng độ cho nhau vào Nhà Lớn của Tam Giáo, để đồng tu luyện chánh tâm, chánh Đạo, chánh hành.
Thiên Lý trợ duyên,
Học Đạo cải tiến.
Nguồn văn học Phật Pháp là nền tảng chơn lý văn minh của Phật Học. Văn ngôn Phật Pháp là chìa khoá hàm chứa Ẩn Ngữ, Thiên Ngôn, và các công thức để tu luyện đắc Pháp đạt Đạo. Phật cho phép Thánh Tâm Thái Bình viết ra để lên lớp các môn sinh và tuyển thi hàng thiện tri thức.
Ẩn Ngữ thi hàng Đạo Đức.
Thiên Ngôn mở cửa Nhân Hiền.
Xem kinh là tìm ra công thức Đạo Pháp để tu luyện thành Đạo. Tự đốn pháp cho mình, tự mở đường chánh đẳng chánh giác cho mỗi người, để biết mở cửa Huyền Quang mà về lại cõi Niết Bàn Thiên Chơn Vô Tướng. Đạo Lớn là vô tướng mà hiện diện trong tâm của các bậc thiện trí thức. Đời nầy, kiếp nầy tự mở nó ra để đồng hành Phật Đạo.
Đạo Lớn vô hình,
Nuôi dưỡng Trời Đất.
Người người đều hưởng khí linh của Đạo,
Nhà nhà đều mượn đất để an cư lập nghiệp.
Mượn khí Trời nuôi sống bản thân,
Dưỡng Phật Tử khai tâm học Đạo.
Phật Lớn vô tướng,
Ẩn trong lòng người.
Nhân loại đều có Phật Lớn trong mình, đó là lương tâm chí nhân, chí thiện. Tại vì:
Theo ngoại cảnh phân tâm.
Ôm bản ngã nên phân biệt.
Phật linh ứng có sẵn trong người,
Đạo Thiên Lý có sẵn trong Trời.
Chỉ còn mượn Pháp đào sâu vào trong lòng chí thiện, thì mở đức hiếu sinh của Trời Đất chớ khó gì.
Nhân gian hướng Đạo đồng thanh,
Chơn Nhơn hướng Đạo Thái Bình.
Nhân lớn vô tranh,
Tu dưỡng thành Đạo.
Trước Tâm Nhãn của Phật Pháp không có thiện ác,
Trước Thiên Lý của Trời không có chánh tà.
Ai tu nấy đắc.
Ai hành nấy ngộ.
Tột cùng của Đạo là vô tư Quang Minh Chánh Định.
Tột cùng nhân phẩm là lương tâm chí thiện không chánh, không tà.
Trước sau một lòng nhân,
Dưới trên đồng hướng độ.
Cầu Đạo quy tâm,
Sáng đức tự soi.
Học Đạo khai thông,
Chánh giác tự noi.
Giáo Chánh Giáo,
Tự tâm minh trí sáng.
Đạo Chánh Đạo,
Khai tuệ giác tu hành.
Người người có đường lành,
Khai thông thì sẽ ngộ.
Nhà nhà có Đạo thanh,
Tu dưỡng thì sẽ đạt.
Tâm lành khai mở chánh ngôn,
Chơn tu soi kinh tỏ lý.
Ngộ Đạo tự mình hành,
Đạt Đạo thật tột lành.
Kính Bái,
Đức Thầy Vô Danh Thị.
Chơn Đạo Vô Hình.
Chơn Phật Vô Tướng.
Chơn Nhơn Vô Danh.
Chơn Tu Vô Tranh.
(Hết trang 4)
(Tiếp theo đầu trang 94, 95, 96, 97, 98, 99, Trang cuối. - Minh Đạo Chơn Kinh - Đức Phật Thầy Vô Danh Thị)
Thiên lý muôn dặm truyền tâm,
Chơn lý truyền hoài không dứt.
Điển khí hoá đi khắp Vũ Trụ,
Tinh thần hiệp các cõi các cung.
Trời dạy pháp thông lý ngộ tánh,
Người học lý chơn lý hiệp tánh.
Đạo cao nhất xích,
Nối nhịp cầu Thiên.
Đạo thông nhất Khiếu,
Nối luồng Thiên Xích.
Tâm Đạo hướng thanh,
Người thành chánh quả.
Công tu luyện mà kết,
Quả do thân trồng thành.
Đạo thật Đạo vô tranh,
Nhân chí nhân vô danh.
Nhân vô danh về cõi vô sanh,
Đạo vô tranh hiệp Đạo Tam Thanh.
Lòng phàm sanh phân biệt,
Người Đạo diệt phàm tâm.
Diệt phàm tâm Tâm Đạo mới sanh,
Chết phàm ngã phi lai Phật Quốc.
Hướng độ nhân kết quả thiện lành,
Phò Thiên Đạo hườn sanh cải lão.
Đủ trí thấy ngu,
Đầy ngu thấy trí.
Thiên Lý hội trong Tam Thanh,
Đạo thanh tịnh khai thông Ngũ Giác.
Trí thượng trí kinh thơ uyên bác,
Nhân thượng nhân thượng học quân bình.
Đời Thượng Đức phổ Chánh Kinh.
Đạo Thượng Đức mở Đạo Huỳnh.
Phật pháp Thượng Ngươn quy tâm hội,
Niết Bàn Pháp Bảo ngộ chơn kinh.
Trời khai mở Đạo Huỳnh,
Phật khai cơ Di Lạc.
Đạo minh tâm cải tử hồi sinh,
Đời Minh Đức học Kinh Thượng Học.
Pháp giáo Hư Không.
Ngộ Không đã thông.
Trong Không chánh Không.
Chơn Không quán thông.
Hiệp Không Đạo trong.
Hườn Không Đạo thông.
Tâm Không hoàn nguyên.
Không Không tịnh yên.
Khí Đạo Hồng Mông.
Sanh Giáo sanh Tông.
Huyền Thiên Tạo Công.
Khoa Học Thiên Không.
Duy tâm ngộ Tông.
Đạo thành tâm thông.
Khí hoá Hạo Nhiên Vũ Trụ mở đường,
Cõi Không Động Đạo Linh đi khắp.
Nhất Nguyên quy Không Động,
Không Động hiệp Nhất Nguyên.
Sắc tức không sắc,
Không sắc tức sắc.
Đạo tức vô tướng,
Vô tướng tức vô sanh.
Hư Vô sanh Hư Hư Vô,
Hư Hư Vô sanh Diệu Hữu.
Sắc tướng giả quy tâm diệt tướng,
Nơi Hư Không phi tưởng quy căn.
Cõi Không Động nhiên đăng sáng tỏ,
Phật tức tâm diệt ngả phi danh.
Bồ Đề giống vô sanh,
Phật Quang gốc vô tử.
- TĨNH ĐẠO HƯ KHÔNG -
Không trong tĩnh Không
Không thông đạt Không
Thiên Không độ Không
Không Không ngộ Không.
Hiệp Không chuyển Không
Linh Không trống Không
Dụng Không pháp thông
Chơn Không cảnh Không.
Vào Không đoạt Không
Mở Không Đạo trong
Huyền Không minh Không
Không động thần thông.
Phật Không hình Không
Đạo Không sắc Không
Chuyển Không hườn Không
Vòng Không tròn Không.
Đả Không tĩnh Không
Tịnh động hiệp Không
Thông Không lòng Không
Tròn tròn mênh mông.
Vào trong Không Thiên
Khí hoá Hạo Nhiên
Bảy nguồn Như Ý
Pháp tánh lộ Thiên.
Mênh mông khí Tiên
Thần tĩnh tánh yên
Như Lai Chơn Thể
Hiệp khí Huyền Thiên.
Hồng Mông Huyền Huyền
Sanh khí Hạo Nhiên
Đi khắp Tam Thiên
Hườn căn tĩnh Đạo.
Không Không tịnh yên
Phật Pháp vô biên
Sanh ra Thiên Thủ
Thiên Nhãn thông Thiên.
Pháp tâm Đồ Thiên
Chất Xám thanh huyền
Hư Không Diệu Hữu
Tam Muội Hư Thiên.
- PHÁP ĐỊNH TÂM -
Nhập định diệt bản ngã
Tịnh tánh hội Kim Tiên
Thiên Ngôn học Mật Ngữ
Chơn Thể hoá Kim Thuyền.
Nhập định diệt thân sơ
Khai hoá nguồn Thiên Thơ
Giao tâm cùng Tạo Hoá
Giải ba khí trần dơ.
Nhập định khai linh tâm
Như Lai Pháp nắm cầm
Thuyền không tâm mở lối
Học Kinh Trời siêu âm.
Nhập định khai Pháp Hoa
Kim Thân ngự Liên Toà
Ba Nhà thường lui tới
Kết thành vòng Liên Hoa.
Nhập định khai Pháp Tâm
Thông Thiên Đạo truy tầm
Thiên Không linh các pháp
Pháp biến thành thuyền tâm.
Nhập định khai Nhiên Đăng
Cầm đuốc tuệ tinh thần
Gươm huệ diệt bản ngã
Viết Kinh Trời không tâm.
Nhập định khai Pháp Thân
Linh ảnh qua các tầng
Xuyên qua đường Xích Đạo
Mở Bát Kinh hiệp thân.
Nhập định dưỡng tinh thần
Hào quang Mười Phương Phật
Thiên Không thường chưởng dưỡng
Lò Trời của Pháp Vương.
Nhập định khai thần kinh
Điển tâm hoà quang minh
Cửu Khiếu Thần Quang chiếu
Nhìn xuyên cảnh vô hình.
Nhập định lòng lặng thinh
Điển giao hoà Thiên Kính
Thiên Lý tự nhiên mở
Đất Trời rộng thinh thinh.
Nhập định khai Thần Quang
Cầm gậy Trời Kim Cang
Mở đường Thiên Lý Nhãn
Xem các cảnh Niết Bàn.
- Hết -
(Tiếp theo đầu trang 86, 87, 88, 89, 90, 91, 92, 93 - Minh Đạo Chơn Kinh - Đức Phật Thầy Vô Danh Thị)
Nước biển màu xanh,
Mẹ lành dung chứa.
Đời Thượng Đức dân trí sống thiện,
Người Thượng Trí hành Đạo tự nguyện.
Người chí thiện không bàn việc thiện ác,
Đạo chí thiện không bàn cao thấp tranh biện.
Trước hoằng sanh,
Sau độ lành,
Trong tình thương yêu cao cả.
Lành tột lành,
Sáng tột sáng,
Như viên Ngọc của Trời sanh.
Không nhiễm thiện - tột lành.
Không nhiễm ác - tột thanh.
Lành đến chỗ vô tranh,
Thanh đến chỗ lành Đạo.
Kinh thông, hơi dài thông tất cả,
Mạch thông, ánh sáng tỏ khắp trong ngoài.
Nhẹ nhẹ thông kinh,
Linh khí chuyển khắp.
Thanh thanh thông mạch,
Ánh sáng bao trùm.
Hít một hơi dài, dài như không hít,
Chuyển từng hơi, sáng toả khắp linh tâm.
Đạo nhiếp tâm, khí lành thâu chơn tánh,
Theo Hư Vô, từng nhịp thở hoà Không.
Khí Hạo Nhiên theo hơi đi cùng khắp,
Đạt Đạo lành mở cửa Đạo thông Thiên.
Thông Ngũ Lý khí triều nguyên bốc sáng,
Chủ Ngũ Hành điều khiển lý Âm Dương.
Tịnh tịnh pháp luân, khí thanh phát khởi,
Nhẹ nhẹ chuyển luân, tâm thân hết mõi.
Hít khí lành hoá giải các trược ô,
Luân chuyển khí thanh lọc thân nội thể.
Thần hiệp thần,
Thần thông linh vô kể.
Khí hiệp linh,
Khí chuyển khắp Hư Vô.
Đạo hiệp thể,
Đạo hườn Hư phục mệnh.
Tánh hườn Không,
Ngộ sản tánh Kim Thân.
Đạo gọi Chân Nhân,
Phật gọi Chơn Thần.
Linh tánh giác, huệ tâm trí thông suốt,
Đạo huyền đồng, sanh tử vốn vô tâm.
Phật điển Dương, khai mở cửa huyền tâm,
Tiên điển Âm, kết Thánh Thai đạt Đạo.
Máy Huyền Cơ linh tâm cầm Chơn Đạo.
Thuận mệnh Trời linh ứng khắp Tam Thiên.
Phật luyện Huyền Công,
Tiên tu Nhập Thất.
Khí quy nhất, đồng khởi ở tâm,
Đạo quy thức, đồng mở ở tánh.
Tánh giác tâm thông,
Độ thân lợi chúng.
Đạo thông, thông suốt.
Biết số đặt mệnh.
Ngũ Kinh mở, Ngũ Luân đồng nhất lý,
Ngũ Hành thông, Ngũ Khí hoá triều nguyên.
Tam Điền khai, Hoa Tâm thường trụ đảnh,
Tam Thanh hoà, kết Đạo hiệp Thánh Thai.
Như Lai hội, mạch thông thường tỏ sánh,
Thần xuất ra, thường đạp án mây lành.
Thanh Đạo quy tâm,
Chơn Đạo quy thanh.
Đạo nhất lý, đồng thanh tương ứng,
Hội điển tâm, ứng cảm Đạo Hư Vô.
Lòng Trời khai, Đạo Tâm thông các lý,
Đạt Nhất Nguyên, chơn khí tịnh hườn Vô.
Cầm gậy Kim Cang mở đường Anh Thánh,
Hoá Ngũ Vân mở cửa chín tầng mây.
Thâu Lục Tướng chỉnh trang hàng nội các,
Các Tỳ Kheo mở hội ứng khoa thi.
Đem Ngũ Pháp Kinh Điền khai hoang lộ,
Lập Pháp xong Xá Huệ cõi Ba Ngàn.
Nhất khí thâu, kinh lý cõi Niết Bàn,
Dạy sanh chúng hào quang thường chưởng dưỡng.
Trời Không Không thanh quang khai Diệu Tướng,
Phật hoá duyên nhập định lộ thần thông.
Tướng quang phát do tâm thông trí Đạo,
Phật tức tâm Tâm Thánh hội chơn nhơn.
Hoa Thiên Mạng thuần Dương hiệp một lý,
Phổ Kinh Trời ân điển gội bốn phương.
Định xuất do tâm,
Khai thông Cửu Khiếu.
Nhập định do tánh,
Lui tới Ba Nhà.
Giảng kinh pháp,
Pháp tánh đốn ngộ.
Giảng kinh văn,
Khai lý duyệt độ.
Vạn pháp quy Không,
Tâm pháp có một.
Tâm ứng truyền tâm,
Khí linh tiếp dẫn.
Ẩn ngôn khai ngộ,
Phật hội Tam Điền.
Thiên điển thông công,
Pháp tánh thông suốt.
Trời chí linh làm chủ hết Hư Vô,
Phật chí lành Nhà Lớn của Thiên Địa.
Tam Điền khai Dịch Lý,
Dịch Lý thông Ngũ Kinh.
Lục Khí mở Thất Chơn,
Thất Chơn khai Bát Quái.
Nhìn Thiên Văn thấu rõ lòng Trời,
Xem Địa Lý làu thông độn giáp.
Nhìn xem Trời thấu rõ căn nguyên,
Xem cảnh vật rõ bổn lai diện mục.
Sống an nhiên như người du mục,
Đạo vô tranh hạnh đức ở tâm lành.
Tâm chí thiện, Đạo chí linh.
Đời thích sống một mình.
Đạo thích an một cõi.
Trước độc lập, sau dưỡng Thần.
Vạn vật ở ngoài thân - không thật.
Vạn vật ở ngoài cảnh - không tâm.
Pháp đốn ngộ Không,
Tánh thông trường thọ.
Dưỡng Đạo truyền đời,
Thí Pháp độ ngôn.
Một câu văn,
Khai sáng tinh thần.
Chiếu quang Phật,
Khai thông đường trí tuệ.
Chỉ pháp lành,
Mở tuệ giác thông kinh.
Linh đạt linh, Lục Kinh khai mở.
Giác đạt giác, uyên bác làu thông.
Thầy sáng danh sư,
Trò sáng danh đệ.
Nước gặp nguồn chuyển tiếp,
Đạo gặp Đạo kết hiệp.
Thanh quang chiếu sáng tâm,
Khí linh rửa sạch tánh.
Tánh sáng Đạo nhập Thánh,
Tâm trong Đạo thông công.
Nhất lý thông vạn lý đều linh,
Nhất khiếu mở Huyền Kinh Thầy dạy.
Đạo thành phép linh,
Đạo huyền chí thiện.
Cây mọc ngọn để ngậm sương,
Người giác tánh để thành Đạo.
Tánh giác diệt ngàn mê,
Bồ Đề tâm hiển lộ.
Tâm chí lành người Đạo đổi chơn dung,
Lòng chí thiện người Đạo đổi pháp tướng.
Tướng Phật khoan thai,
Hài hoà dung mạo.
Tướng Pháp uy nghi,
Đường đường chánh diệu.
Học pháp lý khai ngộ điển kinh.
Luyện Mật Pháp thông đường Thiên Đạo.
Chim khôn tung cánh bay cao,
Bay muôn phương để nhìn xa biết rộng.
Đạo cao thông mạch lý thần kinh,
Vào Sáu Cõi học cao biết rộng.
Luyện mình trong khí linh,
Ngộ mình trong Trời Đất.
(Hết trang 93.)
(Tiếp theo đầu trang 82, 83, 84, 85 - Minh Đạo Chơn Kinh - Đức Phật Thầy Vô Danh Thị)
Lành ở chỗ vô tư,
Thông ở chỗ vô tâm.
Miệng người nói thiện,
Tâm chứa điều ác.
Đạo người khuyến thiện,
Còn chứa phải quấy.
Nếu đến vô tư thì không còn khuyến nói,
Nếu đã vô tâm thì tự nhiên họ học.
Người vô tư chứa Đạo Trời Đất,
Lòng vô tư dứt thiện, dứt ác.
Chánh chê tà, thiện ác phân tranh,
Tà chê chánh, lấn chen khắp chốn.
Lòng không ác không nghĩ đến điều ác,
Lòng không thiện không bàn đến việc thiện.
Duyên đến thì làm,
Tự nhiên Thiên Lý.
Lòng không thiện ác,
Trí tuệ mới thành.
Lòng không phân biệt,
Đạo Lớn mới hiệp.
Pháp không phân tranh,
Mở Đạo giác ngộ.
Đạo thanh tịnh miễn bàn,
Người giác ngộ miễn luận.
Người ham lợi nhỏ,
Chết trong danh nghiệp.
Kẻ học Đạo Lớn,
Sống mãi vô sanh.
Trí đời - hơn người.
Trí xảo - diệt phước.
Trí tuệ - tỉnh người.
Lợi Đạo - hạnh phúc.
Tâm nghẹt - phân biệt tranh đấu.
Tâm thông - mở lối Phật Môn.
Tâm trược sanh đấu tranh,
Tâm thanh lui về tịnh.
Nhìn người biết nhân,
Nhìn Đạo biết quả.
Hành động hằng ngày,
Lộ chỗ cạn sâu.
Bàn luận vài giờ,
Biết phần mê giác.
Đạo không nhồi không biết quả đến đâu,
Người không thử không phân ra chơn nguỵ.
Thử Đạo để truyền đời,
Nhồi Đạo nắm kết quả.
Vàng thật vàng gặp lửa thì thanh,
Đạo thật Đạo không sanh tà mị.
Người đạt Đạo không lòng tư kỷ,
Khách chơn tu chết hết tâm phàm.
Liễu tâm sanh Phật Tánh,
Liễu Đạo sản Như Lai.
Người không lòng chẳng có chê ai,
Khách tĩnh Đạo quay về bến giác.
Lòng mát tâm thanh,
Đạo lành đốn pháp.
Ánh dương quang hiệp chỗ tâm thanh,
Lòng chí thiện hiệp ngôi Chí Thánh.
Đạo đức lành nhờ tánh Đạo thông,
Hoa phúc đức linh tâm trồng lấy.
Vườn hạnh người trồng,
Vườn Đạo Thầy trồng.
Đạo khoe màu khoe sắc thanh quang,
Tình cao đẹp vững vàng thanh nhã.
Nhân theo thời, dụng võ bốn phương,
Đạo theo Thánh, mở cơ Thánh Đức.
Pháp duy tâm không tình đạt Đạo,
Đạo không tánh chí lành chí Thánh.
Vào chỗ Không đi tìm cái Có,
Đạt mệnh Trời thấy rõ Đạo Như Lai.
Đạo chí linh đi trong lòng thiên hạ,
Đạo chí lành trong các giống đương sanh.
Vật có đức linh,
Người có Đạo lành.
Vật linh, ứng cảm theo lòng Trời,
Đạo lành, ứng cảm theo lòng người.
Có lấy Không làm dụng,
Không lấy Có làm nền.
Bến giác đò tâm,
Thuyền lành không đáy.
(Hết trang 85.)
(Tiếp theo đầu trang 78, 79, 80, 81 - Minh Đạo Chơn Kinh - Đức Phật Thầy Vô Danh Thị)
Kẻ có huệ cúi đầu bái phục,
Người mắt phàm sau trước vô tri.
Cơ Huyền Ẩn,
Đạo thông tri.
Người mới học làm sao thông suốt,
Khách mới tu đâu biết Đạo cạn sâu.
Chẳng qua hiểu chút ít kinh văn,
Mà muốn bàn vào Đạo Trời không động.
Mới học một chút ít căn bản,
Mà muốn làm bậc Đại Quang Minh!
Lòng phàm chưa sạch,
Đạo Lớn khó về.
Đời mê vật - chìm sâu.
Đạo mê kinh - ngã mạng.
Bánh vẽ không thể no lòng,
Đạo Lớn chưa huệ chưa biết.
Dẫu tu một ngàn năm,
Không có Pháp Tâm vẫn bí lối.
Dầu tu ngàn kiếp,
Không khai trí huệ vẫn cùng đường.
Bóng tối đi theo,
Quỷ Vô Thường đến bắt.
Học cho tới chỗ yên,
Thì lòng lại muốn ẩn.
Học cho tới chỗ thanh,
Thì lòng lại đi tịnh.
Học cho tới chỗ an,
Lòng lại vào nhập định.
Yên cho Đạo lưu hành,
Thanh cho Đạo giác ngộ.
An cho yên mệnh số,
Định cho tỏ nguồn xưa.
Phật Pháp không tâm, cầm Đạo Đại Thừa,
Chơn lý không tánh, linh thiêng khắp cả.
Dọn lòng để giải điển ô trược,
Thanh lọc để tẩy rửa độc tố.
Lòng sạch lộ Huyền Cơ,
Thân sạch thâu Thiên Điển.
Điển pháp hoá giải nhân duyên,
Tâm thiền khai minh chánh giác.
Đạo khai để truyền đời,
Học Đạo để thành Đạo.
Ánh sáng bao quanh,
Quỷ kỉnh, Thần kính, Tiên phục.
Phàm với Thánh luận ở chỗ mê với giác,
Phật với người học ở chỗ ngộ hay chưa.
Dù học hết kinh Đại Thừa,
Tâm chưa sáng thần thông chưa lãnh ngộ.
Lòng phàm còn đầy ấp,
Chơn lý khó kéo về.
Dù có tập luyện hết các pháp căn bản,
Cũng không phải cách giải thoát hoàn toàn.
Pháp Tâm là Tâm Pháp,
Ngộ truyền sẽ đạt Đạo.
Tâm Pháp mở được Khiếu Linh,
Linh Tâm lãnh hội Pháp Giới.
Phật duy nhân dạy pháp truyền đời,
Bậc Đại Căn học cơ Huyền Ẩn.
Ngộ Đạo Lớn cải tánh diệt danh,
Ngộ Đạo Lớn dưỡng tu thành Đạo.
Đạo thành chí Thánh,
Đạo giác trí lành.
Bậc lành Đạo nói lời minh triết,
Hàng chơn tu tỏ lối Đại Thừa.
Viết một vần thơ,
Làu thông uyên bác.
Bàn một lý kinh,
Thông suốt cạn sâu.
Hiểu nông bày điều tổn Đạo,
Hiểu sâu Thiên Lý muôn ngàn.
Người đạt trí tuệ,
Thử người tu Đạo.
Thử để phân loại,
Nhồi để phân phẩm.
Nhân không nhồi không đạt Đạo Chí Nhân,
Đạo không nhồi không đạt Đạo Chí Thánh.
Nhồi để phân,
Luyện để hiệp.
Bậc đạt Đạo giống như người khùng,
Bậc thành Đạo giống như khách ung dung.
(Hết trang 81.)
(Tiếp theo đầu trang 71, 72, 73, 74, 75, 76, 77 - Minh Đạo Chơn Kinh - Đức Phật Thầy Vô Danh Thị)
- Thiên Lý ứng tâm, Thiên Lý ứng cảm -
Thiên Lý ứng tâm,
Hồi quang phản chiếu.
Thiên Lý ứng cảm,
Tâm tâm tương ứng.
Cảm theo thức lưu hành,
Tâm theo lý ứng cảm.
Dòng Đạo thanh trong,
Trống lòng sẽ tới.
Nguồn Đạo thiện lành,
Tâm thanh sẽ đạt.
Giải động đạt tịnh,
Giải trược đạt thanh.
Pháp thanh tịnh hiệp một Nhất Nguyên,
Đạo thanh tịnh vào lòng Trời Đất.
Cực tịnh thâu vạn pháp,
Cực định hiệp Hư Không.
Đi trong Tam Giới bằng điển,
Đi trong Vũ Trụ bằng linh ảnh.
Điển giải tâm kiến tánh Như Lai,
Kết Linh Thể hào quang Diệu Tướng.
Chơn Hoả Muội Hoả,
Hiệp một hườn Vô.
Không Động Chơn Thể,
Linh Khí Trời Đất.
Sấm theo điển chấn động,
Khí theo điển lưu hành.
Đạo mở hào quang,
Mỗi ngày mỗi sáng.
Đạt Đạo trong ngoài,
Trên dưới tròn đầy.
Khí Hạo Nhiên trên dưới giao thông,
Đạo Trời Đất tự thân tỏ ngộ.
Mô Ni sắp số,
Xá Lợi kết hình.
Sanh lại mình đạo lực mới linh,
Cầm số mệnh Đại La Thiên Giới.
Niết Bàn hội kinh phổ,
Thiên Tiên nắm Huyền Cơ.
Đạo Học duy tâm tự ngộ.
Trục Học duy vật tự truy.
Đạo Học khí linh,
Trục Học khí trược.
Đạo minh kinh, pháp linh tự tánh,
Huyền cơ thông, pháp lực hội về.
Cầu một hiệp linh thiêng bao khắp,
Ứng tâm soi tỏ ngộ căn duyên.
Tánh Không của linh thiêng,
Đạo Huyền của Phật Lý.
Đời cực trược,
Luyện được chơn thanh.
Đạo cực động,
Luyện được Chơn Thánh.
Đạo không lòng,
Kết đại nhân duyên.
Thiên lý tường vân,
Thuận Thiên hiệp Đạo.
Qua chín tầng mây,
Hiệp lòng Trời Đất.
Qua bảy tầng Trời,
Hiệp Đại Thiên Tôn.
Qua cõi Mười Phương,
Ba ngàn thế giới.
Gom hết lại trong lòng Trời,
Ban nó ra đi cùng khắp.
Khí không động - khí Huyền,
Trời không động - Trời thiêng.
Tâm không động - tâm linh,
Trí không động - trí tuệ.
Lòng không động - lòng thiêng,
Tánh không động - tánh thiền.
Chỗ không động tự nó không lời,
Tình vững mạnh yêu trong thanh thản.
Phật đạt pháp nối cầu hai tám,
Tiên thần thông biết chỗ trúc cơ.
Thiên Lý không thân sơ,
Học thông thì tỏ ngộ.
Nghiệm cho ra chỗ khúc triết hành văn,
Tìm cho rõ sự huyền cơ yên ẩn.
Lời mộc mạc linh ngôn cẩn thận.
Lý giản đơn hàm chứa Huyền Cơ.
Một câu văn là một bài giải Thiên Thơ,
Lời bình giải có ẩn cơ Phật Pháp.
Đại căn tỏ ngộ,
Hiểu rõ nên hành.
Văn của Phật là lý vô sanh,
Lời của Thánh chí linh chí ứng.
Học kinh luận đừng ôm trong kinh luận
Khai hoá ra chỗ Diệu Pháp tiềm tàng
Không khác gì nhà địa chất tầm vàng
Lọc sạn cát mới tìm ra vàng thật.
Còn phải đốt rồi đem ra phân chất
Đã thật vàng nhưng nó thấp hay cao
Lửa cho già chảy hết chất vàng thao
Mới trị giá thanh cao vàng thật.
Đạo cũng thế giống như vàng lọc,
Mới tầm ra nguồn gốc Như Lai.
Thiệt Ngọc phải mài,
Thật vàng phải đốt.
Mài cho tới sáng tròn ngọc tốt,
Đốt cho thành trổ mặt vàng mười.
Ngọc Linh Sơn là Ngọc của Trời,
Kim Thân Phật Linh Quang Thượng Đế.
Lò Bát Quái giải tâm luyện thể,
Đốt tánh linh pha chế Âm Dương.
Đốt tâm thành Thánh Thể Tây Phương,
Hiệp Pháp Thể đường đường minh chánh.
Tâm đắc thành Hiển Thánh Di Vương,
Đạo mở đường xây dựng Thượng Ngươn.
Đạo chỉ ngả vô thường,
Đời được cơ cứu thế.
Nối chí Như Lai,
Cầm đuốc Thượng Đế.
Vui trí thiền dạo khắp Trời Tây,
Thường nhập định ra vào Tam Giới.
Phổ Kinh Phật nhân sanh học lại,
Bạch Diệu Kinh giải thoát tinh thần.
Hội tụ thành văn,
Lòng trống thấy Phật.
Cỡi lớp áo phong trần,
Nhận Kim Quang Phật Pháp.
Đổi kiếp sống hữu vi,
Tầm ra cơ huyền bí.
Đạo Lớn tầm đúng bậc chơn sư,
Pháp Lớn tầm bậc thầy siêu thoát.
Bậc giác ngộ lánh đời.
Đạt siêu thoát vào đời.
Lánh đời để luyện Đạo thành công,
Vào đời để rước hàng môn đệ.
Hàng đạt Đạo ở ăn như dương thế,
Như khách trần Linh Thể của Như Lai.
Như người trần ăn uống vui say,
Người ngơ ngáo nào ai có hiểu.
Ẩn như thế mới nên vi diệu,
Giữa biển đời cá lớn lội thảnh thơi.
Vật ăn vào lòng trống,
Phật ngự ở tâm Không.
Ăn mà không có nhiễm,
Tu mà như không tu.
(Hết trang 77.)
(Tiếp theo đầu trang 66, 67, 68, 69, 70 - Minh Đạo Chơn Kinh - Đức Phật Thầy Vô Danh Thị)
Bến giác kề chân,
Quay thuyền sẽ tới.
Bóng tối ngàn năm,
Gặp pháp rửa sáng.
Lòng dục sa đoạ,
Hành pháp giải toả.
Thiên Lý truyền tâm,
Chơn Linh giác ngộ.
Bóng tối dang xa,
Trí tuệ hiệp về.
Ánh sáng toả ra,
Hoa tâm nở nhuỵ.
Thận thuỷ giao cảm,
Thiên Lý lưu hành.
Cảm ứng ngoại tâm,
Tâm minh trí sáng.
Thiên Dục tiếp giao,
Âm Dương sanh sản.
Ngộ Chơn Không nhất lý quy Tiên,
Tâm Đạo thức vô sanh vô tử.
Nơi thanh tịnh máy Trời ghi đủ,
Cõi không lòng giữ sổ Thiên Cơ.
Đạo không tâm Trời của ban sơ,
Nơi nguyên thuỷ biển yêu Thượng Đế.
Thuyền không đáy pháp tâm có đủ,
Người vô tư làm chủ pháp tâm.
Học chỗ Vô Tự,
Đạt ngôi Thái Cực.
Học chỗ Hữu Tự,
Sanh lòng giành giựt.
Học khí thanh, quy tâm chỗ tịnh.
Luyện trí vô tư, trống vắng rảnh rang.
Lòng có trống vắng khí thanh tịnh hiệp về.
Tâm có vô tư mới ngộ chỗ Mật Pháp.
Mạch không đáy thông sơn hiệp hải,
Lòng có vô tư mới hiệp Đạo của Trời.
Ba tất hơi người cho là rất ngắn,
Biết luyện mình đi tột tới Hư Không.
Trong tám mươi bốn ngàn pháp môn,
Thanh tịnh là đạt pháp.
Thanh rút khí thanh,
Tịnh giải hoá khí trược.
Động - đời - trược đục.
Tịnh - Trời - thanh trong.
Minh Đạo hoá giải,
Mê đời tranh đoạt.
Hữu Vi giành cái Có,
Vô Vi đạt cái Không.
Không Không - không còn tranh.
Chơn Không - không còn giành.
Lành để đức vô tranh,
Đạo yên tĩnh vô thanh.
Thức Đạo, phát tâm, gia ơn bố thí.
Mê Đạo, tranh đoạt, gian đảng chiến tranh.
Đạo mê đưa vào Địa Ngục,
Đạo giác chỉ lại ngả Thiên Đàng.
Mê sanh phân tranh.
Giác sanh tha thứ.
Ngọc càng giồi càng trong,
Đạo càng luyện càng giác.
Viên Ngọc rớt xuống bùn đem rửa sạch được sáng,
Cục đất rớt xuống bùn thì vô phương cứu chửa.
Người trí rủi bị mê thì còn tỉnh lại được,
Người mê đã bị mê thì hết phương cứu chửa.
Con cá lớn không ăn rong rêu nhỏ,
Còn tàu lớn không nên đi sông nhỏ.
Phúc đức có chỗ hữu dư,
Đạo thanh có chỗ hữu dụng.
Ứng biến hiệp lý Âm Dương,
Nhập định mở cửa Trời Đất.
Máy Huyền mở lúc sanh Dương,
Đạo tịnh mở giờ Tý, Ngọ.
Cá lớn ẩn giữa biển khơi,
Đạo Lớn ẩn giữa chợ đời.
Sách thanh tịnh không nói điều thanh tịnh,
Đạo thanh tịnh chỉ phép dưỡng thần.
Điều dưỡng tinh thần,
Là pháp thanh tịnh.
Tịnh giữa chợ đời,
Mới thật là tịnh.
Thanh giữa biển người,
Mới thật là thanh.
Lấy động luyện tịnh,
Đạt tịnh chơn tịnh.
Biển người luyện thanh.
Đạt thanh chơn thanh.
Lòng tịnh, vật ngoại thân không nhiễm,
Tâm thanh, nguồn Thiên Điển hiệp về.
Đời bổ hữu dư,
Đạo bớt tham dục.
Dưỡng thần an trí,
Bổ thần an khí.
Phép tiêu giao đạt lý bổ thần,
Tâm thanh thản thoát lòng ái dục.
Trời tan mây ánh sáng tỏ khắp,
Lòng thanh tịnh khí linh đầy nhóc.
(Hết trang 70.)
(Tiếp theo đầu trang 62, 63, 64, 65 - Minh Đạo Chơn Kinh - Đức Phật Thầy Vô Danh Thị)
Vương Đạo mở khai đời Di Lạc
Chánh tâm hoà uyên bác làu thông
Nguồn máy Trời khí Hạo thông công
Khai cơ pháp nối vòng Thất Bảo.
Phật nhập Thánh khai ngôi Chưởng Giáo
Trí Niết Bàn mở Đạo Năm Châu
Đem Tình Thương Đạo Đức phục hồi
Cơ Thiên Địa lập đời trở lại.
Bậc hiền sĩ nay Trời ân đãi
Khách luyện tâm trở lại đò Thiên
Rước người lành đạo đức nhân hiền
Đãi khách Đạo Bồng Lai hội yến.
Phật chuyển thế nắm nguồn linh điển
Cho Thánh Nhân viết lại Thiên Kinh
Đất Đông Phương Huyền Học Trời sanh
Đạo lập lại văn minh Phật Pháp.
Học Như Ý Pháp Môn truyền đạt
Luyện cho xong Bảo Pháp Thiên Hoàng
Ngọc Mô-Ni tỏ lối Niết Bàn
Trời không động là nhà Tam Giáo.
Kim Thân được về đây học Đạo
Tỏ Huyền Linh trí tuệ làu thông
Viết ra nguồn Kinh Mới Hoá Công
Cho Đời Mới minh kinh hiền đức.
Ngũ Khí Triều Nguyên,
Ngưng kết thành mây.
Tam Hoa Tụ Đảnh.
Kết lại thành Đài.
Âm Dương thuần Đạo,
Sanh được Thánh Thai.
Cửu Khiếu khai mở,
Nghe nhạc Trời reo.
Chơn tâm bừng sáng,
Minh Kính hiệp về.
Trí tuệ thông suốt,
Lòng Trời hiệp một.
Linh tánh tròn đầy,
Linh khí đầy ấp.
Đạo hiệp một - tâm linh.
Tánh hiệp một - thần minh.
Khí hiệp một - giao cảm.
Thần hiệp một - minh kinh.
Trí hiệp một - phát huệ.
Tâm hiệp một - ngộ Không.
Thân hiệp một - Thân Pháp
Lục Căn hiệp một - thanh tịnh.
Huệ phát trợ tâm.
Tâm phát trợ tánh.
Tánh phát trợ Đạo.
Đạo phát trợ Pháp.
Vương Đạo sanh chánh khí.
Đại Đạo sanh chánh tâm.
Tâm Đạo sanh chánh hành.
Mở Thánh Tâm xây lại Thượng Ngươn,
Đời hiền thảo gieo nhân kết Đạo.
Phật giáng hạ thành nhân,
Nhân tu tâm đắc Thánh.
Hoa lớn trổ lúc thanh Xuân,
Đạo Lớn dựng đời Thượng Cổ.
Nhân hiền trở lại nhà xưa,
Khách Đạo đi về bến cũ.
Nước Phật đón hiền nhân,
Thánh Đạo mời nhân sĩ.
Thanh tâm đạt Đạo Lớn,
Tịnh tánh nối cầu Thiên.
Nhập định kết nhân duyên,
Tham thiền khai Huyền Học.
Thông công hiệp Đất Trời,
Dưỡng Đạo mở hào quang.
Tâm hiệp điển khai thông.
Khí hiệp điển hoá giải.
Thân hiệp điển thanh lọc.
Thần hiệp điển thành hào quang.
Tánh Không - tánh linh diệu.
Lý Không - lý thanh tịnh.
Tâm Không - tâm nhập định.
Lòng Không - thông thiên kính.
Đạo Không - Đạo huyền đồng.
Phật Không - Chơn Phật vô tướng.
Thiên Không - chơn lý thông suốt.
Thánh Không - trí tuệ viên dung.
Thần Không - thần thông vô ngại.
Nhân Không - bậc Chí Thiện.
Pháp Không - đốn Pháp ngộ Không.
Thiền Không - Linh Pháp Không đầy.
(Hết trang 65.)
(Tiếp theo đầu trang 56, 57, 58, 59, 60, 61 - Minh Đạo Chơn Kinh - Đức Phật Thầy Vô Danh Thị)
Mỗi Chơn Pháp đều chỉ chỗ khiếu linh,
Mỗi Pháp Tâm đều chỉ chỗ kiến tánh.
Vật không trụ, không hoại, không diệt.
Lòng thanh tịnh giải động diệt loạn.
Đạo cao thiên xích,
Ma Quỷ kỉnh nhường.
Phật tâm phát sáng,
Thiên Lý hồi hương.
Văn theo chương lập thành,
Tâm theo huệ thức Đạo.
Huệ thức tâm giác,
Uyên bác làu thông,
Pháp tánh tròn đầy,
Không học mà biết.
Tâm theo huệ mà sanh,
Tánh theo huệ mà phát.
Chơn lý vô biên,
Quy tâm gom cả.
Phật Pháp vô cùng,
Nhiếp tánh thâu lại.
Phật nhập tâm thuyết giảng kinh văn,
Pháp nhập tánh Pháp Vương ban khắp.
Vương Đạo sanh, Trời hiện điềm lành,
Bậc cứu thế tái sanh phổ Đạo.
Kinh Tam Thừa trọn quyền chưởng giáo,
Pháp Như Lai Linh Thể giáng sanh.
Vũ Trụ con lành,
Càn Khôn hiếu Đạo.
Kinh Pháp Cứu giảng Kinh Linh Bảo,
Cõi Như Lai con thảo giáng trần.
Khai mở Thiên Ân,
An bang tế thế.
Lập Hoàng Đạo Pháp Vương Trời để
mở ra đời Minh Đức Tân Dân.
Trên nắm Pháp Vương lập Đài Phong Thần,
Thâu vạn pháp kinh bang Nước Phật.
Lập nguồn văn học,
Phổ bá Pháp Vương.
Tâm thành chí nguyện nghiệp nhà nên,
Đạo đức khuyên con rán giữ bền.
Phước lớn Trời ban,
Đạo linh con phổ.
Hoa trổ Kỳ Ba,
Long Hoa Trời lập.
Trời lập đất Thái Bình,
Phật lập cơ Di Lạc.
Cảnh thanh tịnh gieo gương tòng bá.
Lòng chí thành để đức cho chung.
Soi ánh sáng Đại Hùng,
Đạo Trung Dung tự phổ.
Bàn kim luận cổ,
Chỉ chỗ khiếu linh,
Đạo kết Long Hình,
Phật giao Linh Bảo.
Nhân Thượng Nhân Chí Linh thành Đạo,
Thánh Chí Thánh Linh Bảo đắc thành.
Tiên hội Tam Thanh,
Phật hội Long Hoa.
Mở hội Quần Tiên,
Khai cơ Thượng Đức.
Mở hội Hồng Bàng,
Luận kinh Điểm Đạo.
Mở hội Long Vân,
Lập Đại Phong Thần.
Mở hội Long Hoa,
Thiên Địa Phán Xét.
Địa linh trổ nhân kiệt,
Đạo linh Thánh minh triết.
Rồng ẩn Thiên Sơn khai mạch lý,
Huỳnh Long xuất hiện hội Kim Quy.
Ngũ Hổ tướng tinh Thiên Địa hội,
Thanh Long Khổng Tước phò Chơn Đạo.
Bạch Tượng Kỳ Lân mở Chơn Giáo,
Huỳnh Hoa toả nhuỵ khắp Kỳ Hương.
Thập Nhị Nhân Hiền coi nhà Đạo,
Thất Tinh tái thế lập đời Hiền.
Ba sáu Thiên Cang Tiên Thiên chuyển,
Bảy hai Địa Sát hội nhân hiền.
Đạt Đạo thuần Dương Sư Tử thượng,
Quy căn hườn tánh hội Thanh Long.
Rồng chầu thượng đảnh,
Hoa Tâm hội về.
Cửa Hườn Nê mở bầu Linh Giác,
Đạo Chơn Nhơn xuất tánh quy Không.
Mở cửa Chí Công,
Đại đồng Tam Giáo.
Phật cày đất lành,
Để phúc đức cho đời.
Tiên cày địa linh,
Để lý số cho đời.
Thánh cày trí tuệ,
Để kinh phổ cho đời.
Thiên Tôn cày dược linh,
Để trường sanh cho đời.
Trời Đất cày khí lành,
Nên nuôi hết thiên hạ.
Nhân duy thượng cầu Chơn Sư tỏ ngộ,
Đạo duy tâm nắm mối lái Huyền Cơ.
Nơi Không Không có phân định ngày giờ,
Cõi tĩnh tĩnh ban khí lành khắp cả.
Trời lấy Đạo Nhất Nguyên.
Nên nuôi chung thiên hạ.
Phật lấy Đạo Nhất Nguyên,
Nên dạy chung thiên hạ.
Tiên lấy Đạo Nhất Nguyên,
Viết Kinh dạy thiên hạ.
Thần lấy Đạo Nhất Nguyên,
Thần Linh chuyển thành sức mạnh.
Người lấy Đạo Nhất Nguyên,
Tu thành Phật Thánh Tiên.
Đạo Nhất Nguyên chơn lý quy tâm,
Luyện bổn tánh hườn đồng cải lão.
Vô vi Lĩnh Bảo,
Chơn lý Đại Thừa.
Đạo thành phép linh,
Đạo lành Chí Thánh.
Thánh Thai được sanh,
Kim Thân phục mệnh.
(Hết trang 61.)
(Tiếp theo đầu trang 50, 51, 52, 53, 54, 55 - Minh Đạo Chơn Kinh - Đức Phật Thầy Vô Danh Thị)
Phật trong lý Nhất Nguyên.
Trời Hư Không huyền ẩn.
Nương mây lành trở lại Đào Nguyên,
Đường giải thoát hồi tâm nhập định.
Thần giao cảm thông đường Minh Cảnh,
Tánh hoà Không mở rộng Thiên Môn.
Hái đào Tiên dự tiệc Tiên Thần,
Uống trà Đạo thơ Tiên ứng thí.
Phật nhập diệt quên văn bỏ lý,
Tiên về Không lột xác bỏ kinh.
Trước sau còn một điểm Thánh Anh,
Thân Pháp vốn là thân bất diệt.
Không thấy biết tròn đầy hiểu biết,
Phật Tiên đồng một tánh vô vi,
Hiệu Mô Ni Xá Lợi Huyền Vi,
Cõi thanh tịnh kết thành Liên Thể.
Huyền Thiên Thượng Đế,
Dạy Đạo vô hình,
Tam Giới khai minh,
Đạo linh khai ngộ,
Biết trước thông xa,
Dưới trên vô tướng.
Nơi cửa Không luyện khí Huyền Quang,
Vào diệu hữu bàn kinh dịch lý.
Mắt thấy biết, muôn ngàn chưa thấy biết,
Tâm xem xa hiểu rộng lại miễn bàn.
Kết khí Huyền Hoàng,
Đò Thiên rước khách.
Khí Hạo Nhiên trong ngoài tắm mát,
Các chân lông hoá muôn triệu Hà Sa.
Linh tâm bao phủ,
Linh tánh xuống lên.
Dạy Lục Căn ra các cảnh ngoài,
Học Pháp Giới biết đường tiến hoá.
Nhập định khai thông,
Huyền cơ diệu toán.
Mượn Pháp Thuỷ làm mưa tưới khắp,
Cho vạn linh vạn vật hồi sinh.
Giảng một thời kinh,
Mưa lành nhuần thắm.
Tiên Thần Thánh đồng hội Vô Vi,
Ngồi nghe pháp trên mây toả sáng.
Thánh Tiên làm bạn,
Học Đạo Huyền Không.
Kinh Vô Tự điển giải trống lòng,
Đò Thiên Trúc vô vi không đáy.
Lập văn ngôn dạy người nghe thấy,
Viết thành kinh mở ngỏ cho đời.
Thật Đạo Nhất Nguyên,
Trong ngoài thanh tịnh.
Cùng lý - điển hoá văn.
Tận tánh - khai Phật Pháp.
Linh Ngữ về Đạo Tâm xuất hiện,
Thiên Ngôn gom vào tánh thần thông.
Đò Tây Thiên lên xuống ngược dòng,
Khách Đạo Đức quy tâm lai đáo.
Tu Đạo đạt lòng Không,
Tu tâm đạt thanh tịnh.
Lòng Không mở cửa Đạo,
Thanh tịnh vào Nhà Lớn.
Hoa Tâm nở Thất Bảo Sen Vàng,
Kim Thân hiệp chu du thiên hạ.
Đò Thiên tâm pháp bằng hình điển,
Rước khách thập phương chẳng tốn tiền.
Đạo khai tâm dạo khắp Ngũ Châu,
Trời chứng quả chu du thiên hạ.
Nhà Lớn được về,
Đạo Cao được dự.
Khách du Tiên tu luyện cả đời,
Khi đắc pháp cảm ơn Tam Giới.
Thiên Quốc hữu sanh vô tướng,
Thiên Đạo hữu tướng vô sanh.
Phật gọi Đạo nguồn lành,
Tiên gọi Đạo trường sanh.
Phật Đạo quy lai tùng thử tận,
Tiên Gia quy tánh lại phi sanh.
Vạn dặm Hư Linh thâu Nhập Thất,
Đương sanh Di Lạc đáo Tây Phương.
Kim Thân xuất hiện
Thân Pháp trường sanh
Về tận nguồn lành
Truy thông diệu lý.
Học Cơ Huyền Bí
Khoa học vô hình
Mở cửa Huyền Linh
Học Kinh Vô Tự.
Không còn văn ngữ
Một lý điển quang
Hư Không Huyền Hoàng
Ba Ngàn Thế Giới.
Không mà có Liên Châu Phật hội,
Có mà không thanh tĩnh vô cùng.
Phật chứng quả Không,
Niết Bàn diệu Hữu.
Các Nước Phật hào quang liên thủ,
Đạo tột lành Vũ Trụ là đây.
Một giờ nơi nầy,
Một năm tại thế.
Một năm tại thế,
Một ngày tại Trời.
Tới chỗ không lời,
Đến nơi hành Đạo.
Ngũ Kinh biến thể,
Tam Bảo hoá thân.
Lục Tánh quy căn,
Ngũ Vân qua lại.
Điển hoá giải hào quang kết lại,
Đạo quy tâm pháp lực phục hồi.
Kinh lý Bồ Đề,
Ba ngàn Pháp Phật.
Phật cải tử hoàn sanh.
Tiên đắc thông tánh mạng.
Lộ thần thông ra ngoài Tam Giới,
Kiến Như Lai điểm Đạo vô hình.
Linh bất linh tại ngã,
Thành Trụ Hoại Không sắc tướng giả.
Ngàn suối hiệp về sông,
Trăm sông hiệp về biển.
Ngàn pháp hiệp về tâm,
Chơn tâm hiệp về Đạo.
Ngàn pháp hiệp về Tông,
Tam Thanh quy về Đạo.
(Hết trang 55.)
(Tiếp theo đầu trang 46, 47, 48, 49 - Minh Đạo Chơn Kinh - Đức Phật Thầy Vô Danh Thị)
Ra khỏi không gian mới thấy Trời lớn rộng,
Về hiệp lòng Trời mới thấy Pháp Giới vô biên.
Tiên Thiên học Đạo Thiên Không,
Hậu Thiên học Kinh Triết Tự.
Thuyền Pháp không đáy vô tâm,
Lòng Đạo vòng ô trống rỗng.
Thuyền không đáy đưa người qua Bỉ Ngạn,
Pháp không tâm rước khách Đại Từ Bi.
Học Đạo cầu tâm,
Đạt tâm hườn Không.
Nơi trống trống chứa muôn ngàn hình bóng,
Chỗ Không Không làm chủ hết muôn loài.
Đường Thiên Sơn đại lộ không hai,
Truyền Tâm Ấn Phật Pháp có một.
Tiên Thánh Phật đồng tu một Pháp,
Đạo Đất Trời một gốc một nguồn.
Trên Hư Không Như Lai làm Tổ,
Đạo Tiên Thiên Ngọc Đế cầm cơ.
Trời có Thiên Cang,
Đất có Địa Sát,
Người có Âm Dương.
Đạo một lý dạy muôn ngàn vật,
Trời một tâm khai sáng muôn tâm.
Nhất lý biến, truyền nguồn Đại Pháp,
Nhất nhân đắc, siêu thoát Cửu Huyền.
Đạo ngộ tâm, thức tỉnh trần mê,
Đời tu tịnh, khai thông ngũ giác.
Biển lớn không qua,
Khó về đến bến.
Đạo Lớn không tu,
Khó hội Niết Bàn.
Khai sáng ngọn đuốc từ quang,
Chiếu soi con đường trí tuệ.
Viết một bài kinh,
Chỉ rõ Trời Đất.
Đường Thiên Không bằng điển khai tâm,
Mở Thiên Xích đi tầm Chơn Giáo.
Đạo Kinh có một,
Phật Pháp không hai.
Trong Tam Giáo Đại Thiên một giống,
Nước Tây Phương Giáo Pháp Bồ Đề.
Phật lấy tâm làm chủ,
Pháp lấy tánh làm căn.
Tâm sáng - nhìn trăng,
Tánh thông - nhìn cảnh.
Tâm thanh tịnh trăng hiện bên hồ,
Tánh thanh tịnh nhìn thông giáo pháp.
Bồ Đề Bổn Vô Thụ,
Minh Cảnh Diệt Phi Đài.
Tâm thức hồi quang,
Thiên Chơn tròn sáng.
Cảnh sanh diệt vào cảnh nhập diệt,
Lòng vô tư khai nguồn minh triết.
Đạo hiệp một - quy tâm.
Đức hiệp một - quy tánh.
Tâm tánh Chơn Không,
Âm Dương đạt Đạo.
Tâm quang sáng sáng,
Tánh Đạo tròn trỏn.
Ngưng kết Thánh Thai,
Kim Tiên ngoại sản.
Vòng Thiên Lý an trụ linh tâm,
Hào Quang Phật mở đường kinh phổ,
Tánh giác ngộ quang minh sáng tỏ,
Vào lò Trời tỏ lối Phật Môn,
Dạo Cung Hằng học Đạo Thiên Tôn,
Vào Sáu Cõi chu du Pháp Giới.
Tâm định - thần giao cảm.
Huệ giác - học Kinh Trời.
Nơi Hư Không là chỗ không lời,
Mà trí tuệ gom nguồn kinh pháp.
Lò Trời đúc Kim Thân.
Hào quang đốt tánh trần.
Tánh tòng bá phi lai Phật Quốc.
Cửa Huyền Thiên đón khách Như Lai.
Hồ Trời soi tâm tịnh,
Lý Đạo hiệp Nhất Nguyên.
Phản bổn hườn Vô,
Đạo thành Chí Thánh.
(Hết trang 49.)
(Tiếp theo đầu trang 42, 43, 44, 45 - Minh Đạo Chơn Kinh - Đức Phật Thầy Vô Danh Thị)
Trở lại cõi chưa sanh,
Đạo thanh tĩnh đắc thành.
Biến biến, ứng ứng.
Tu tu, chứng chứng.
Biển lớn không tràn,
Đạo Lớn vô sanh.
Khí thanh tịnh đi khắp không gian,
Đạo không động chứa hết Vũ Trụ.
Nhà Đại Khoa Học yên ẩn giữa lòng Trời,
Linh thiêng không động cầm tánh mạng người.
Pháp Lớn quy tâm,
Trời Lớn không gian.
Gió động đi khắp bốn phương,
Lòng động che tối trí tuệ.
Đi một bước vững Đạo một bước,
Đi hai bước vững Đạo hai bước.
Mỗi bước tiến đều phải lập thành,
Người khai huệ tâm đức hiền lành.
Vững tâm bền chí,
Khai lý Phật Môn.
Trước khi sanh không hề có tử,
Sau khi sanh lập ra sanh tử.
Viên Ngọc Như Ý ở cõi Niết Bàn,
Vốn của nó vô sanh vô tử.
Đạo lúc chưa sanh ra,
Đường luân hồi chưa có.
Con người lúc chưa sanh ra,
Họ hàng quyến thuộc chưa tới.
Khi đã có thân,
Nhận người cha mẹ.
Duyên theo số bày ra,
Dòng theo họ mà truyền.
Luân hồi theo số sanh ra.
Thất Tình theo tánh sắp số.
Học Đạo quy Không,
Trước sau vô vật.
Cải cách đời sống,
An phận thủ thường.
Tình theo lý mà khởi,
Lòng theo dục mà động.
Dứt tình tịnh lý,
Tịnh lòng diệt dục.
Lòng tịnh, Ma Lục Dục chẳng theo,
Tâm thanh, Quỷ Thất Tình sụp đổ.
Trí sáng khai huệ,
Tuệ giác thức Đạo.
Hào quang tỏ sáng,
Thuần Dương tánh mạng.
Gậy Kim Cang đạt Đạo cầm theo,
Đường giải thoát quy căn sẽ tới.
Thanh điển rộng xa,
Tâm tánh trẻ lại.
Hiệp Đạo Nhất Nguyên,
Thiên Chơn tỏ ngộ.
Trời theo tâm ứng mà học,
Đạo theo tâm tịnh mà luyện.
Luyện chỗ không tâm,
Gom được chơn tâm.
Luyện nơi không tánh,
Gom được chơn tánh.
Hoà theo khí, đạp gió đè mây,
Mở Huyền Khiếu, thâu nguồn Chơn Pháp.
Linh thiêng theo khiếu hiệp về,
Thanh quang theo tâm ban phát.
Nguồn suối Đạo là thanh quang điển lành,
Hiệp được Đạo ban ra hoài không hết.
Lên cao học Đạo gieo duyên,
Xuống thấp truyền Đạo gieo nhân.
Duyên theo điển mà kết,
Nhân theo pháp mà hành.
Trong các pháp, đốn ngộ pháp tánh,
Trong các căn, quy tâm hiện rõ.
Hồi quang phản chiếu,
Minh Kính Thiên Không.
Nhìn Pháp Giới mênh mông thông suốt,
Soi tới đâu, tỏ ngộ bản lai.
Pháp Thuỷ Tiên Thiên,
Chuyển hoài không dứt.
Biển lớn có cạn sâu,
Đạo tâm có rộng hẹp.
(Hết trang 45.)
(Tiếp theo đầu trang 40, 41 - Minh Đạo Chơn Kinh - Đức Phật Thầy Vô Danh Thị)
Đạo Trời sanh khí Dương,
Đạo Đất sanh khí Âm.
Đạo kết lý để tầm căn,
Người tu mệnh để tầm bổn.
Tâm tầm bổn là tánh tâm hiệp nhất,
Âm hoà Dương để mở Đạo Trung Dung.
Mệnh theo số mà kết,
Số theo mệnh mà thành.
Trước Dịch Lý không có Dịch Lý,
Trước Trời Đất không có Trời Đất.
Luồng điển Thiên xuyên phá không gian,
Người Quân Tử thế Thiên hành Đạo.
Cõi Không Không ứng biến vạn biến,
Cửa không động chế ngự vật động.
Linh theo Không đạt thiêng,
Thần quy Không đạt huyền.
Nơi mới khởi hiệp nơi không khởi,
Đạo hữu vi hiệp chỗ vô vi.
Điển khí xuyên mây,
Điển giới xuyên không.
Lồng lộng chỗ vô tư,
Quân bình nơi thanh tịnh.
Điển nhập tâm giao tiếp không gian,
Đạo nhập thể hào quang toả sáng.
Khí theo điển hoá thân,
Đạo theo điển kết Thần.
Kinh điển đi theo mạch lý,
Điển văn đi theo trí tuệ.
Bừng bừng thức thức,
Hừng hừng sáng sáng.
Điển giao cảm phát thanh,
Đạo giao cảm phát huệ.
Trường lớn vô ngôn,
Thầy lớn vô hình.
Bình tâm thanh tịnh
Nghe tiếng sáo Trời
Lòng Không ngâm vịnh
Đi vào lòng Trời
Hư Vô lặng lẽ
Rộng lớn không lời.
(Hết trang 41.)
(Tiếp theo đầu trang 36, 37, 38, 39 - Minh Đạo Chơn Kinh - Đức Phật Thầy Vô Danh Thị)
Khí thanh hoá giải được vạn sự ô trược,
Cõi tịnh yên thấu hiểu được lòng người.
Đời mưu sự người tu không mưu sự,
Đời chiếm đoạt lòng tu không chiếm đoạt.
Mưu sự tại nhân,
Thành sự tại Thiên.
Đạo tu ở ruộng phúc điền,
Đời tu ở vườn phúc đức.
Cảnh sát phạt bày ra,
Dạy chơn tu yên ẩn.
Đạo lúc nghịch tầm nơi yên để tịnh,
Lọc cho thanh khí trược trong mình.
Về cõi Không thấy rõ nhân tình.
Luật thế thái lòng tu tường tận.
Đạo trắng đời đen,
Đạo thanh đời trược.
Mượn cảnh huyền để tịnh trí khai tâm,
Học nhẫn nại để mở lòng thanh tịnh.
Trái đắng thường ăn.
Dây oan thường gỡ.
Tỉnh tánh trần giữa giấc Nam Kha,
Mở đường Đạo qua cơn khảo đảo.
Mộng trần hồ hải,
Biển Đạo mênh mông.
Ai có uống nước trong,
Mới thấm nguồn suối Đạo.
Ai vượt qua khảo đảo,
Mới thấy rõ lòng phàm.
Cơm trắng được thơm,
Lửa nung mới chín.
Quả vị được cao,
Nhờ nhồi trong trược.
Nhân là nguồn của duyên,
Duyên là quả của Đạo.
Suối lớn reo to,
Hồ lớn yên tịnh.
Minh một lý, thấu rõ nguồn Trời Đất,
Thông mạch Đạo, thông suốt máy Huyền Cơ.
Nhồi để tiến,
Tu bổ khuyết.
Sóng lớn không dang xa không phải là sóng,
Đạo Lớn không lên cao không phải bậc thanh ba.
Đạo sĩ theo hiền kết nhân,
Nhân sĩ theo thời kết duyên.
Trọng Đạo, minh hiền, khai trí, mở huệ.
Biết thời, ra thế, lập lý, bày cơ.
Thiên Huyền Ẩn duy tâm tự mở,
Đạo Huyền Ẩn tu tánh ngộ Không.
Lý theo sự mà giải,
Động theo tịnh mà kết.
Huyền biến lúc hưng thời,
Tịnh tu lúc đêm vắng.
Huyền giải để các cảnh vật an yên,
Tịnh tu để khải ngộ lý Trời dạy.
Mạch nước ngầm xuyên đất lên tới núi cao,
Luồng từ quang xuyên mây ra vào Trời Lớn.
Chỗ trống không là nơi định lý Huyền Cơ,
Nơi Nhà Lớn nuôi chung Tam Giáo Đạo.
Huyền Khí từ đó phát quang,
Nguồn tịnh từ đây quy hiệp.
Trăng thượng huyền là nguồn Thiên Lý phát sanh,
Trăng hạ huyền là Hậu Thiên - Tiên Thiên giao tiếp.
Nguồn Pháp Thuỷ theo đó giao hiệp,
Lộng Trời Thiên theo đó chuyển tiếp.
Tu Tiên Thiên lãnh hội chỗ Huyền Cơ,
Tu Đạo Thiên lãnh hội chỗ ngày giờ.
Mạch theo Long mà mở,
Huyệt kết Linh mà khai.
Đất Linh kết khí Long Hình,
Đạo Linh kết thành Hai Tám.
Khí theo hoá mà thiêng,
Đạo theo pháp nhập diệt.
Ngôi Bắc Đẩu kết ở cung Trời,
Đường Bắc Đẩu kết ở hướng Bắc.
Nam Phương sanh Lửa Bính Đinh,
Bắc Phương sanh Nhâm Quý Thuỷ.
Nam Phương sanh ở cung Ngọ,
Kết giờ Âm khí thuần Âm.
Bắc Phương sanh ở cung Tý,
Kết giờ Dương khí thuần Dương.
(Hết trang 39.)
(Tiếp theo đầu trang 32, 33, 34, 35 - Minh Đạo Chơn Kinh - Đức Phật Thầy Vô Danh Thị)
- HUYỀN CHƠN GIÁO PHÁP -
Huyền Học Khai Chơn Tâm
Chơn Nhơn Khai Đạo Đức
Giáo Truyền Khai Chơn Lý
Pháp Thuỷ Khai Trường Sanh.
Nắm gió pháp khai nguồn chơn lý
Mở linh tâm cầu ngọn đuốc Thần
Phổ Kinh Trời thức tỉnh nhân sanh
Khai đường Đạo phá bầu hắc ám.
Kim Thân hiệp vòng Trời Hai Tám
Cửa Hư Vô làm bạn Tiên Gia
Nối cầu Thiên nhân sĩ về nhà
Tu chánh đức cầm cân thưởng phạt.
Đạo chí linh Thiên Hoàng truyền đạt
Cùng Phật Tiên khai Đạo Thái Bình
Nước Trời khai cứu các môn sinh
Đạo bình giải tâm an trí định.
Cầm ngòi bút Minh Kinh Chánh Định
Lời từ ngôn chơn lý mở ra
Dạy Pháp Môn Như Ý của Cha
Cho bá tánh nhuần ơn Trời Phật.
Cửa Công Lý thương người mến vật
Trường Long Hoa mở hội diễn đàn
Cho bốn phương đời sống bình an
Thanh bình được an cư lạc nghiệp.
Cơ Di Lạc khai nguồn minh triết
Kiến thiết đời Minh Đức Tân Dân
Ai là người đạo đức tinh thần
Về đây hiệp Kim Thân Di Lạc.
Học Đạo theo Thầy bao nhiêu năm qua,
Đem lòng từ bi cứu thế độ nhân lưu danh kim cổ.
Bôn ba giữa cảnh người đau kẻ bịnh,
Sáng dạ dễ nghiên cứu dược linh.
Mềm lòng giữa hàng Bá Đạo,
Khổ ải giữa cảnh phân chia.
Đau lòng lúc canh khuya,
Buồn thân lúc đêm vắng.
Ấy chẳng qua là trong lúc nghịch thời,
nên yên ẩn để lập đời Thượng Cổ.
Mảnh đất giữa đời có mất nó cũng là vật ngoài thân, nên dung chứa mảnh phúc điền còn ở trong tâm.
Mượn Pháp Bảo để tái hồi Linh Thể,
Trong một hoàn cảnh ai thấy cũng thương tâm.
Nằm trong một Đạo lòng đây luôn xao xuyến,
Nước dâng cao đất lành thành biển,
Đời loạn tâm trước phút chia tay.
Bậc tế thế nhìn đó lắc đầu,
Hàng Tiên Đạo xem đây ngơ ngác.
Trước Pháp Trời diệt tiêu đời ác,
Lập ra đời Thượng Cổ lai sinh.
Thương đó chí tình,
Lời huyền tiếc lộ.
Nếu chẳng chịu lui gót danh sư
Cuộc đồ thán tránh đâu cho khỏi.
Đời loạn lạc triệt người nhân nghĩa,
Lắm loài gian hại kẻ chơn tu.
Tài như Khương Tử Nha còn ẩn trước lúc ra cơ,
Thông thiên học như Châu Bá Hầu còn cầu hiền đãi sĩ.
Xem thiên tượng để biết lòng Trời,
Ngồi dủ lý bảy năm không mệt mỏi.
Đạo loạn thanh tịnh ẩn yên,
Đời loạn quy tâm giải thoát.
Đây là lời cho bậc Thiện Trí Thức khai minh,
Hàng Bồ Tát biết giữ mình qua cơn nước lửa.
Hoa của Đạo nở lúc trái mùa,
Quả của Đạo hái nơi thanh tịnh.
Sương gió dầy để thử lòng người có Đạo,
Nhồi quả nhiều để dạy bậc Từ Bi.
Trước khi thành Đạo,
Ai không qua Tam Đồ Khổ.
Trước khi thành nhân,
Ai không qua dòng lửa của đời.
(Hết trang 35.)
(Tiếp theo đầu trang 31 - Minh Đạo Chơn Kinh - Đức Phật Thầy Vô Danh Thị)
- Ánh Thái Dương -
Sóng vỗ xa xa
Núi non trùng trùng
Rừng xanh biền biệt
Trời xanh bất diệt.
Biển xanh tha thiết
Gió động đi miết
Mây tụ thành đoàn
Chu du thiên hạ.
Hừng đông đẹp lạ
Ánh sáng đổi màu
Như một quả cầu
Lên Trời mọc thẳng.
Trời sáng giăng giăng
Nước biếc thanh thanh
Gió hoà theo lượn
Sóng nhảy tung tăng.
Ở giữa dương trần
Một nguồn Thuỷ Pháp
Tưới mát chúng sanh
Thánh Bút Thái Bình.
Tịnh tịnh thanh thanh
Ai có Đạo lành
Bồ Đề hiệp thể
Mở Đạo hoằng sanh.
Biển lớn mênh mông
Thuyền giác vào trong
Ba dòng hiệp một
Thế giới đại đồng.
(Hết trang 31.)
(Tiếp theo đầu trang 30 - Minh Đạo Chơn Kinh - Đức Phật Thầy Vô Danh Thị)
- Tu Tịnh Dưỡng Đạo -
Thanh kết Khí quy Không,
Tịnh kết Thai dưỡng Đạo.
Vào Thất biết lý kết Thai,
Trăm ngày an nhiên dưỡng Đạo.
Thai kết Đạo Thần linh,
Thánh kết Khí hoá hình.
Trăm ngày dưỡng Đạo ở Không Trung
Kết Thánh thành Thai giữa Hư Không
An tịnh cho lòng luôn trống trống
Luyện thân Khí Hạo bụng đầy đầy.
Tam Hoa tụ đảnh thành Linh Thể
Ngũ Khí triều nguyên lễ Thượng Đế
Trong bầu nghi lễ hội Tiên Gia
Nhất lý Thiên Không hoằng hoá Đạo.
Đạo theo điển nhập tâm,
Điển theo khí hội tụ.
Nương mây lành dạo cảnh du Tiên,
Ngộ chơn lý kết duyên học Đạo.
Cõi Huyền Huyền linh Đạo,
Nơi không động kết duyên.
Đạo thêm một tất,
Điển cao một thước.
(Hết trang 30.)
(Tiếp theo đầu trang 28, 29 - Minh Đạo Chơn Kinh - Đức Phật Thầy Vô Danh Thị)
- Luyện Đạo Trường Sanh -
Tiên Thiên luyện cái tâm,
Hậu Thiên luyện cái tánh.
Tâm theo lý thông suốt,
Tánh theo Đạo tròn đầy.
Tiên lấy Khí hoá thân,
Đạo lấy Mạng luyện hình.
Khí hoá Thần xuất,
Mạng trụ Thần kết.
Giao thông cửa Huyền Thiên,
Tiếp Huyền Khí Tiên Thiên.
Thánh an lư lập đảnh,
Thai an trụ kết hình.
Nhị Khí Âm Dương thuần Đạo phát,
Hồn Vía giao hội cảm Hoàn Nê.
Tam khí linh, tâm trụ hiển Đạo,
Thần khí linh, hiệp thân cải lão.
Tứ cá Âm Dương hiệp bốn phương,
Đông, Tây, Nam, Bắc kết Tiên Đơn.
Ngũ Khí triều nguyên sanh Huệ Mạng,
Cầm gậy Kim Cang Thần giao cảm.
Lục Khí quy căn thâu Pháp Giới,
Thập Nhị Hiền Thánh thường lui tới.
Thất Nhật Dương sanh Sư Tử Thượng,
Thất Chơn cải lão được hoàn sanh.
Bát Chánh Đạo khai, giao Cửu Khiếu,
Nhạc trổi bốn phương hào quang chiếu.
Chánh khí khai thông tỏ Đất Trời,
Cửu Huyền siêu xuất hiệp chín ngôi.
Thập thiện Phật sanh khởi Thái Bình,
Thiên Sơn vạn hải hiệp thần kinh.
Ba Cung Sáu Cõi thường lui tới,
Luyện Đạo Tiên Thiên ở lòng Trời.
(Hết trang 29.)
(Tiếp theo đầu trang 25, 26, 27 - Minh Đạo Chơn Kinh - Đức Phật Thầy Vô Danh Thị)
Bậc Thượng Trí Thức:
- Kết nhân với hiền tài,
Để khai sơn lập địa.
- Kết thân với đạo đức,
Để rèn luyện tâm thân.
- Kết thân với nhân sĩ,
Để học Đạo làm người.
- Kết thân với chí sĩ,
Để mở rộng văn chương.
- Kết thân với đạo sĩ,
Để tham thiền nhập định.
Nối trí hải khai hoá biển khơi,
Luyên Tam Muội khai nguồn kinh pháp.
Đạo dùng tịnh khai bầu khí hoá,
Đức dùng độ lượng nâng đỡ nhân tài.
Khí hoá thăng Thiên,
Thiên Lý hiệp Đạo.
Thuyền lớn nên hợp với biển khơi,
Vượt trùng dương đáo lai bờ Bỉ Ngạn.
Biển lớn nên dung chứa được vạn loài,
Tình lớn thường hy sinh âm thầm lặng lẽ.
Đạo Lớn không còn lời nói,
Nhân lớn không còn phân tranh.
Biển lớn nước sâu Pháp Thuỷ hằng hà,
Đạo Lớn tịnh yên Pháp Giới Vô Thượng.
Nước xiên, không hiệp thành mây,
Đạo xiên, không hiệp thành điển giới.
Lục Đạo vận hành,
Luân hồi không dứt.
Đó chẳng qua nhân phẩm chưa tròn,
Lòng phân biệt Đạo Gia chưa dứt.
Nên hư thành bại,
Số mệnh an bày.
Học Đạo Tam Thanh,
Phi Lai Phật Quốc.
Học chơn giải lên tới đầu nguồn,
Muốn thành Đạo buông đời mới thoát.
Lục Đạo như sợi dây vô hình,
Trói buộc nhân sanh cùng khắp cả.
Tính một điều lợi đương tranh,
Sợi dây luân hồi không dứt.
Oan gia tái tương tranh,
Giải thoát nhờ buông thả.
Tranh đoạt với người,
Đào sâu hố thẳm.
Hoà ái với người
Bàn đào yến hội.
Nhân phẩm hướng thượng thì sinh,
Đạo phẩm luyện trong khổ thì đạt.
Biên giới của tình yêu,
Là Lục Dục Thất Tình.
Biên giới hàng Đạo Đức,
Là nhân trung hiếu nghĩa.
Biên giới của nhân loại,
Là Địa Ngục Thiên Đàng.
Thuận Thiên giả tồn,
Nghịch Thiên giả vong.
(Hết trang 27.)
(Tiếp theo đầu trang 17, 18, 19, 20, 21, 22, 23, 24 - Minh Đạo Chơn Kinh - Đức Phật Thầy Vô Danh Thị)
- Tiên Thiên Đại Đạo -
Tiên Thiên luyện khí để hoá thân,
Hậu Thiên luyện Đạo để kết thể.
Tiên Đạo vô hình hữu ảnh,
Phật Đạo vô tướng duy tâm.
Tiên Thiên:
Lấy khí Hạo Nhiên bổ Âm Dương.
Lấy Khí Linh để kết Linh Huyệt.
Lấy Mạng Môn để điều hoà Kinh Mạch.
Dùng Huyền Công để mở Khiếu Linh.
Vào Nhập-Thất để kết Thánh Thai.
An dưỡng Đạo cho nhuần Âm Dương Nhị Khí.
Xa việc đời cho tâm tịnh trí an.
Sống an phận cho thông mạch lý.
Hoà hài như trẻ thơ,
Quân bình thường dưỡng Đạo.
Khí thanh nhẹ chu du Sáu Cõi,
Lòng an nhiên hiệp được Ba Nhà.
Diệt phàm tâm học Đạo - ly gia.
Diệt bản ngã Lục Thông - cắt ái.
Truy cái mệnh để hiệp cùng Đạo,
Truy cái lý số để hiệp cùng căn.
Căn Tiên phò Phật Đạo,
Thiên Lý hiệp theo về.
Thiên Đạo cầu sư học Phật,
Thiên Lý cầu đạo hiệp tâm.
Căn theo mệnh mà phát,
Duyên theo mệnh mà ban.
Truy căn là truy tới đầu nguồn,
Thuận mệnh là hiệp nhất với Đạo.
Cầu Thiên nối lúc đêm thanh,
Đạo đạt Pháp nhờ lòng thành.
Thiên giả ngã tự diệt ngã,
Đạo giả danh tự diệt danh.
Sức Đạo nhờ tịnh để thanh,
Lực Đạo nhờ luyện mới thông.
Huệ phát mau chậm,
Do tâm động tịnh.
Thuỷ trí hiệp Đạo,
Trí tuệ hiệp thân.
Nhất lý thông đạt,
Vạn lý thông suốt.
Một gánh nặng buông xuống,
Thân thể được nhẹ nhàng.
Dứt khoát cái trần tâm,
Thiên Lý tự hiệp về.
Thanh nhờ tịnh hiệp Nhất,
Khí nhờ tịnh kết Thai.
Nhất Dương thanh thông đạt Huyền Cơ,
Nhất Âm tịnh Linh Thai kết thể.
Tụ khí Huyền Huyền,
Dưỡng khí Hạo Nhiên,
Hiệp khí Tiên Thiên,
Kết Thai lập Đảnh.
Âm Dương kết lý Âm Dương đồng,
Hiệp nhất Chơn Linh Đạo quy Không.
Vật có Bổn Lai,
Người có Diện Mục.
Đạo Lớn vô tướng lại kết hình,
Đức Lớn vô hình lại kết lý.
Lấy Chơn Tâm kết chỗ hiệp thể,
Lấy Không Tâm hiệp thể hườn Vô.
Tình theo lý nên động,
Đạo nuôi đức nên tịnh.
Đức lớn Thần minh,
Tình lớn vô thinh.
Cái dung chứa lớn - sáng suốt.
Biển yêu Thượng Đế - âm thầm.
Có lấy Không làm nhà,
Không lấy Có làm nền.
Nhà lớn không ranh,
Nền lớn không biên.
Tâm theo nhân kết duyên,
Đạo theo đức phổ truyền.
Kết duyên truyền nhân,
Dưỡng Đạo truyền đời.
Đạo sáng nhờ lý,
Đạo linh nhờ ngộ.
Đến chỗ không tâm,
Học Đạo vô tư.
Không tâm là chỗ Trời Đất,
Vô tư là Đạo tu dưỡng.
Văn theo điển dịch kinh,
Điển giải văn định nghĩa.
Hoà vào chỗ không tâm,
Hiệp vào nơi không động.
Lòng Trời Thiêng bao trùm khắp cả,
Khí Huyền Linh nuôi dưỡng thiên hạ.
Thân theo số kết giống,
Đạo theo pháp kết nguồn.
Lấy chánh niệm ban ra,
Sáng đức cả thiên hạ.
Lấy khí điển ban ra,
Thanh lọc được Vũ Trụ.
Hành Đạo quên có thân,
Nhập định quên có tâm.
Quên thân thể giải Thất Tình,
Quên tâm để thoát phân biệt.
Quên thân nhục dục không đeo,
Quên tâm chơn lý tự mở.
Cõi không động kết Thánh thành Tiên,
Nền thanh tịnh kết Thai thành Phật.
Không là nhà của Đạo Lớn,
Có là trường của Thiên Địa.
Không mượn Có để rèn luyện,
Có nhờ Không để giải thoát.
Thánh mượn Phàm rèn tâm,
Phàm nhờ Thánh đắc ngộ.
Tiên luyện đơn nên kết địa linh.
Phật luyện phúc điền kết nhân duyên.
Tiên đánh cờ để mở trí,
Phật thiền định để khai huệ.
Tiên Thiên học lý mở cửa Huyền Cơ,
Hậu Thiên theo sự vật nên dùng văn tự.
Lý theo Huyền khai hoá,
Vật theo trực kết minh.
Đạo Học duy tâm.
Khoa học duy vật.
Duy tâm nên Đạo linh,
Duy vật sanh biến chứng.
Tâm đồng tương sanh,
Vật đồng tương khắc.
Hai nhà đạo đức thành Thái Bình.
Hai nhà khoa học thành chiến tranh.
Đạo đồng thanh, ứng cảm một lý,
Vật đồng khắc, sanh sát vô cùng.
Đạo đồng sức, tương trợ lẫn nhau.
Đời ngang quyền, tranh đoạt lẫn nhau.
Cái thể càng thanh, hiệp tịnh kết mãi,
Cái đời phân biệt, tranh đấu không ngừng.
Duy vật cao xa,
Đạo đức thấp kém.
Duy tâm minh Đạo,
Nhân quyền phục hưng.
Khoa học tâm linh,
Văn minh Phật Pháp.
Khoa học biến chứng,
Văn minh tranh đoạt.
Đạo đức cao là tột cùng nhân phẩm,
Phong lưu dầy là khách giang hồ.
Đạo đức phát minh,
Thái Bình lập lại.
Phong lưu phát khởi,
Tệ đoan tràn ngập.
Thái Bình dân trí thêm văn.
Chiến tranh an định thêm võ.
Dân trí càng cao,
Văn minh giàu nhuận.
Dân trí càng kém,
Loạn lạc bốn phương.
Thời cổ sanh vương,
Đời kim sanh quyền.
Vương chánh Đạo thuận,
Quyền tranh đại loạn.
Nước không lọc không thanh,
Đạo không phổ không lành.
Nước lớn nhờ Đạo an dân,
Đạo Lớn nhờ nhân phổ bá.
Suy lấy thịnh để phục hưng,
Thạnh bình trị để yên Đạo.
Nhu lấy cương để bảo vệ,
Cương lấy nhu để hoá giải.
(Hết trang 24.)
(Tiếp theo đầu trang 13, 14, 15, 16 - Minh Đạo Chơn Kinh - Đức Phật Thầy Vô Danh Thị)
Thượng sĩ thành tâm.
Đạo sĩ lành tâm.
Người thành tâm cầu Đạo,
Là bậc Thượng Trí Thức.
Lấy cái đức truy nhân,
Hành cái tâm thánh thiện.
Nên được gọi là bậc Chí Nhân.
Nên được trọng vào hàng Hiền Sĩ.
Còn người đem tâm lành hành Đạo,
Là lập hạnh gieo duyên trồng nhân.
Đạo nhờ hạnh truyền đời.
Pháp nhờ lý khai ngộ.
Hoa đức hạnh thường nở trong giông bão,
Lý Hư Vô thường kết trong khảo Đạo.
Nước không lọc không thanh,
Đạo không nhồi không thành.
Quý ở chỗ lòng thành không thay đổi,
Lành ở chỗ nhịn nhục chết cả tâm thân.
Trời chứng Đạo lúc bão to,
Phật đạt Đạo lúc sóng lớn.
Thiên Lý tùng tâm nhất tín vi sư,
Khải ngộ Huyền Cơ kết duyên đạt Đạo.
Người Đạo Nhân:
Tĩnh mình lúc vinh danh.
An mình lúc vinh hoa.
Yên mình lúc học Đạo.
Được thời thi cử ra quan trường,
Là lúc tỉnh mình không để chìm xuống.
Được phú quý nên an mình,
Thì ngã mạn kêu căn không phát.
Ẩn tánh diệt danh,
Lúc mình học Đạo.
Nhốt tâm viên khai đường chơn pháp,
Cột ý mã cho đạo đức viên thành.
Ẩn tánh, Quỷ Vô Thường không động.
Diệt danh, Ma Lục Dục buông tha.
Ấy là cái thế luyện tâm,
Đó là cách huyền của Đạo.
Lúc yếu mượn gậy để nương,
Lúc an mượn ẩn để tịnh.
Thời theo thế nên động,
Đạo theo mệnh nên tịnh.
Cầm cái sống phải tỏ chỗ số mệnh,
Nắm cái chết phải tỏ chỗ Huyền Cơ.
Đời theo Đạo kết số,
Đạo ra đời kết mệnh.
Ứng biến trước thiên hạ:
Lấy tịnh chế động.
Lấy thanh lọc trược.
Truy tận đầu nguồn,
Nắm vững mối lái.
Gieo nhân lúc thuận mùa,
Trợ duyên lúc nghịch mùa.
Trồng nhân lúc thời bình,
Dụng nhân lúc thời loạn.
Truy nhân trong lúc nghèo,
Truy hiền trong lúc thạnh.
Chí sĩ cầu nhân,
Đạo sĩ cầu hiền.
Chí sĩ dụng nhân trung hiếu nghĩa,
Là bậc chí nhân quân tử.
Đạo sĩ dụng hiền thanh liêm,
Là bậc hiền nhân đạo đức.
Nhân trung ái quốc hiển Thần,
Đạo trung phò Đạo hiển Thánh.
Chí nhân là trung thần,
Đạo nhân là thánh triết.
Liêm theo thanh để trung chánh,
Minh theo giác để tỏ ngộ.
Khí Đạo cầu hoà,
Khí thể cầu thuận.
Hoà với khí để mở luồng Thiên Xích,
Giao với Hư Không hoà cùng Đại Đạo.
Thuận theo mệnh Trời,
Khí Thể thanh nhẹ.
Thuận theo đạo đức,
Linh Tâm khai mở.
Trên tỏ Thiên Thời,
Dưới thông Địa Sát.
Nhìn thiên tượng biết trước thời tiết,
Nắm Âm Dương cảm ứng các biến.
Xem địa lý biết phong thuỷ thạnh suy,
Nhìn sự việc biết nên hư thành bại.
(Hết trang 16)