(Bắt đầu trang 1.)
Cảm Tạ
☀️
Con thành tâm cảm tạ Thiên ân của Đức Phật Tổ, Đức Cha Trời Mẹ Đất, và Cộng Đồng Cửu Phẩm - Phật, Tiên, Thánh, Thần - Tam Giới Thiên Địa Nhân.
Con cũng thành tâm cảm tạ công ơn Thầy Tổ và chư vị Đạo Hửu ở địa phương và năm châu thế giới, đã đặc biệt quang chiếu Thanh Quang Điển Lành và trợ giúp cho con có phương tiện thực hiện các tập sách - Thi Văn Tâm Linh Đạo Học - để con và chư vị Đạo Hửu có cơ hội phụng sự Cơ Thiên Địa Đại Đạo của Đức Như Lai Phật Tổ và Đức Thiên Địa Phụ Mẫu.
Con chân thành ước mong được chia sẻ Tình Thương, Đạo Đức, và sự hiểu biết về Sức Khoẻ và Tâm Linh Điển Quang Đạo Học cùng với cộng đồng Nhân Sinh, Vạn Linh Tam Giới.
Một lần nữa con xin thành tâm đảnh lễ và cảm tạ Thiên Ân Bề Trên, và con đặc biệt cảm tạ chư vị Đạo Hửu, Thân Hửu cùng tất cả quí bạn đọc khắp nơi trên thế giới đã và đang dành rất nhiều cảm tình và sự trợ giúp quí báu.
Trân trọng kính bái,
Vô Danh Thị
LỜI TỰA
☀️
Văn thường ôn thường sáng
Võ thường luyện thường dũng.
Tôn Ngô Binh Pháp là đạo làm tướng của thời xưa.
Văn Ngôn Thuật Luận là Đạo Thái Bình của đời nay.
Một câu văn ngôn là một đường gươm trí tuệ của Đạo Gia; có thể chặt đức lòng phàm ngã của đối phương để thay vào nguồn pháp lý của linh tâm minh kính.
Đạo đức xưa nay bàn ở chỗ đốn pháp là:
Đốn một câu văn để thay đổi lòng phàm
Soi một luồng chơn pháp để minh tâm kiến tánh.
Khi xưa Lục Tổ Huệ Năng chỉ có nghe được hai câu kinh: Ưng Vô Sở Trụ. Nhi Sanh Kỳ Tâm, mà ngộ được tự tánh và đi tìm Ngũ Tổ Hoàng Nhẫn để thọ pháp học Đạo. Đến khi đắc pháp mới đi khai giáo cho chúng sanh thấy tánh và được truyền Tổ Thứ Sáu của Đạt Ma Sơ Tổ phổ bá.
Đời nay ngòi bút Thái Bình cũng nhờ ngộ được hai câu kệ: Chơn Đạo Vô Hình. Chơn Phật Vô Tướng, mà tìm ra được nguyên lý của Hư Không Đại Định, mà kết thể hiệp làm một với Đại Đạo của Thầy; Thần Khí hiệp làm một vào Chơn Khí Diệu Quang Di Lạc. Và đem tâm Thánh Đạo viết ra văn bút Thái Bình để đóng góp cho các Linh Tâm tìm đường về nguồn cội cùng nhau học tập chơn ngôn diệu lý của Thầy.
Đạo là một biển hào quang chí linh chí thiện; chuyển hoá Càn Khôn; vận hành Vũ Trụ; làm thầy Tam Giáo; làm chủ Đất Trời; làm chúa nhân loại; trên cầm Thiên Mệnh của Trời; dưới định số cho vạn vật. Mỗi mỗi không thấy mà sanh trụ hoại diệt của mỗi chu kỳ điều có sự vô hình của Thầy đã an định. Cho nên, Đạo Học của Thái Bình xin được viết lại những gì Thầy cho phép. Còn sức học vô biên của Hư Không Đại Định, cho dù học mãi cũng không bao giờ hết.
Chơn Đạo Hư Không
Mật Ngôn Huyền Ẩn.
Khi đã hội nhập vào Đại Thể của Vũ Trụ Hư Vô mà học, thì cái linh tâm linh giác, hiệp đồng thức hoá sanh, huệ tâm khai mở của mình để mà học.
Đại Thể sáng quang minh
Tâm Linh hiệp nguồn Đạo.
Học đến đây:
Thức cảm ứng thần giao
Đạo cảm ứng vô ngã.
VĂN NGÔN THUẬT LUẬN
☀️
1. Một chén thuốc không đắng trị không nổi một cơn cảm nặng. Lời nói không thẳng không xuyên qua được trái tim người cằn cỗi.
2. Con dao bén cắt gọt được khéo. Lời nói bén quá sẽ cắt đứt tình cảm của người thân.
3. Dồn người vào chỗ cô thế thì không nên làm, vì đường cùng tắt phản, vật cực tắt biến.
4. Được thưởng một bửa tiệc ngon không đáng quý bằng gặp được người biết trọng nhân nghĩa.
5. Giận người mà bôi nhoạ người là việc không nên làm, vì người rửa sẽ sạch, còn mình lại bị dơ hoài ở trong tâm.
6. Cuộc vận mệnh đi như giòng nước, có lúc ròng lại lớn. Chỉ sợ người không đủ nhẫn nại để ngồi chờ.
7. Vàng và ngọc là một thứ trang sức quý giá, nhưng có khi cũng không bằng lời châu tiếng ngọc.
8. Nhân nghĩa là một thứ tình cảm vô hình hửu tướng, chứa không bao giờ đầy, trả không bao giờ dứt.
9. Không phải chỉ ăn ngon ba buổi là đủ để làm người, mà phải học mãi vẫn chưa đủ.
10. Làm phước thiện một đời sợ chưa được toàn thiện, làm ác một lúc thì ác chứa thành non. Chưa vào quan tài thì chưa vội nói mình lành vậy.
11. Không ai giúp mình cho bằng chính mình. Không ai gần mình cho bằng vợ mình. Vậy vợ mình là tri kỷ đó vậy.
12. Một đời mà không có bạn như đồng hạn cây khô. Một đời mà chưa tìm được bạn là còn ích kỷ. Nếu không ích kỷ thì tự nhiên có tri kỷ.
13. Thấy ai cũng xấu chỉ có riêng mình tốt, là mình đang ở Địa Ngục.
Thấy ai cũng tốt chỉ có mình xấu vậy là đang về Thiên Đàng.
14. Mọi người điều hay chỉ có mình dở, là cầu tiến.
Mọi người dở mà mình hay, là luôn bị thất bại.
15. Mỗi con người điều có cái hay riêng của họ và cũng có cái dở đi kèm theo. Hay nên học, dở nên bỏ.
16. Trí Tuệ mà được trau giồi thì càng sáng.
Tài Đức mà được rèn luyện thì vững mạnh.
Đạo Pháp mà được tu bổ thì thông suốt.
17. Không có loại thuốc gì trị bịnh cho người cố chấp.
Chỉ có thời gian là liều thuốc tự trị.
18. Người thi sĩ là người giàu hồn thơ mà nghèo vật chất.
19. Người tu sĩ là người giàu tinh thần của Đạo Học Tâm Linh, mà cũng là nghèo về vật chất, nghèo đến mức không có đủ quần áo để thay đổi.
20. Yêu đương mà đi theo con tim sẽ bị đau khổ, còn đi theo lý trí sẽ được hạnh phúc.
21. Tình yêu không nên đổi bằng vật chất, vật hết tình tuyệt; không nên đổi bằng sức mạnh, lúc yếu nó trốn; cũng không nên đổi bằng địa vị vì nó sẽ biến theo thời thế; chỉ có đổi bằng nhân nghĩa thì mới được bền vững.
22. Một que cũi khô có thể cứu được người bịnh hoạn. Một lời nói chơn thật sẽ làm tỉnh được lòng người yếu đuối.
23. Phật Pháp là một món ăn không có mùi vị, như cây chưa đẽo, như nước còn tinh khiết, vì vậy muốn dùng vào việc gì cũng được.
24. Con nai thích uống nước suối trong sạch, thích ăn lá có vị thuốc là để thanh lọc hằng ngày. Nhưng tại sao nó không thành Phật? Tại vì nó chưa biết sử dụng Phật Tánh của nó.
25. Con người ngang ngược không có Địa Ngục nào họ sợ; không có sức mạnh nào họ qui phục. Vậy mà một cơn cảm nặng hay một cơn sốt rét họ lại tỉnh tâm.
26. Khi nào nhân nghĩa được khôi phục thì hoà bình sẽ được lập lại.
27. Tệ đoan càng nhiều, phong kiến càng quá, luật pháp càng hà khắc, thuế má lên cao, tiền tệ bị mất giá, đó là sắp thay đổi.
28. Đời càng văn minh vật chất, thì vật chất và thời gian dư thừa nên sanh ra tệ hại.
29. Nóng không ưa, lạnh không thích, là loại người bị bịnh thần kinh, có trị cũng tổn thương, hao thần tốn khí vô ích.
30. Ăn ngon không khen, dở thì chê. Loại người này sống không bao giờ có hạnh phúc, vì chính họ đã đánh mất.
31. Trên không tôn kính tín ngưỡng, dưới không tôn trọng luật pháp, họ là cục đá quí mới đầu thai.
32. Người vợ mà đang áo cho chồng là tỏ hết tấm lòng của mình vậy. Người chồng thờ ơ, hoặc khi đi xa về mà không có quà cho vợ, đó là sự sơ sót lớn trong đời.
33. Một bửa cơm đạm bạc mà ngon hơn bửa tiệc lớn. Sống chung với người vợ thật thà còn có hương vị hơn vào chỗ trà lầu tửu quán.
34. Đường dài không ngán bằng khi lương tâm của con người bị sa đoạ.
35. Sông cạn ít có cá lớn, biển sâu ít có rông rêu. Chỉ sợ nước cạn thì bày ra hết.
36. Không có gì quý hơn lương tâm mình bừng sáng.
37. Không có tiếng chuông nào thức tỉnh lòng người bằng tiếng chuông Lôi Âm Tự.
38. Tình yêu của Đạo là sự an nhiên tự tại, nó đến tự nhiên, nó đi tự tại, mà luôn thanh thản, trong nội thức an vui.
39. Tình yêu của Phật là dụng đức đại bi, dụng lòng từ ái, mà hoá giải nghiệp chướng trong tình trường trai gái, để rồi tự nó tỉnh tâm hành Đạo trong tình yêu giải thoát.
(Hết trang 10.)
(Tiếp đầu trang 114.)
463. Thuận đường đời là đoạ vào cõi luân hồi.
Nghịch đường đời là đi vào cõi giải thoát.
Đã đi tìm giải thoát thì đi trên dư luận của thế gian. Còn sợ sệt, yếu hèn, thì sẽ bị sóng của dòng đời tiêu diệt, muôn đời Đại Đạo chẳng được đắt thành. Bởi vì, chưa qua được dòng đời thì khó mà hiệp dòng Đạo.
464. Lụt lớn phá đê.
Hạn hán lớn tiêu diệt mùa màng.
Chiến tranh lớn tiêu diệt thiên hạ.
Nhân nghĩa lớn cứu đời loạn lạc.
Đạo đức lớn đem Thái Bình lại cho nhân loại.
465. Một vị chơn tu thường bị người sỉ nhục, Ma Quỷ khảo đảo, Bá Đạo bới móc. Nếu nhịn nhục được lớn là đạt Đạo Lớn. Nếu diệt được chúng-sanh-tánh thì phàm tâm chết, đạo tâm xuất hiện.
466. Môn đệ của Nhà Phật mà hại môn đệ của Phật Gia là kẻ đó đang bị ma chướng chiếm đoạt lương tâm. Cho nên nghiệp Đạo muôn đời không bao giờ đắc thành.
467. Ở trong Đạo Hiền mà chứa đầy thú tánh, nói ra toàn là sự phân tranh tổn Đạo hại người. Kẻ đó đang bị ma chướng ba đời đến xúi để đưa họ đi vào Địa Ngục cho xử sớm rồi vậy.
468. Hại người mình tổn đức.
Giết người mình đền mạng.
Bôi nhọ người là đốt rừng đạo đức của chính mình.
Cũng như người canh tác, mà đốt vườn diệt giống thì thu hoạch được cái chi?
469. Cửa khẩu là cái miệng, Thiên Đàng Địa Ngục đều do nó đưa đi. Nói lời lành, làm việc thiện, khuyên người giải oan để tầm tu chánh giác, là họ đang leo thang Tiên về Thiên Đàng.
Còn Bá Đạo chờ cơ hại Đạo, gieo hoạ cho kẻ khác, thị phi đủ thứ. Đó là họ đang xây ngục lớn để giam linh hồn vạn kiếp rồi vậy.
Cho nên nói:
Khẩu Phật tâm xà là tu lâu thành Đại Quỷ.
Khẩu Phật tâm Phật thì hoan hỷ về Trời.
470. Đạo cao thì hiểu sâu, đã hiểu sâu thì yên lặng.
Đạo cạn thì hiểu nông. Nên thanh la đờn trống tụ quần hiệp chúng. Đến khi gió bão lớn thì bị trôi giạt muôn phương, không biết đâu mà tìm kiếm.
471. Nhìn xa được thì độ lượng rộng, trí tuệ viên dung, lòng Đạo phát thức.
Nhìn thiển cận thì độ lượng hẹp, nên ti tiện, nhỏ mọn, rồi trở thành kẻ cô độc suốt đời.
472. Đức rộng thì chứa được nhiều độ lượng.
Đức lớn thì chứa được nhiều bao dung và tha thứ.
Còn toàn đức là trống dạ, không lòng, vô tâm, nên không còn Tánh nữa, việc gì cũng tuỳ duyên.
473. Cái Hoa của Đạo thường nở trong giông bão trái mùa.
Cái Quả của Đạo thường kết ở chỗ không Trời không Đất.
Cái Tâm của Đạo được nở là nhờ các nhác búa của Quỷ.
Cái Lòng của Đạo được soi thấu là nhờ ngọn đuốc của lương tâm kết lại.
474. Muối không mặn không phải là muối biển.
Đạo không thông chưa phải là Đạo Gia.
Tình không có nghịch cảnh là tình không có chung thuỷ.
Tất cả là học sự vấp ngã để trưởng thành đó vậy.
475. Con chim khôn, con thú linh, tất cả điều bị giới hạn.
Chỉ có con người là đồng Tam Tài với Trời Đất.
Vậy có thân mà không biết tu thân thì đã bỏ lỡ cơ hội làm người cho kiếp tới rồi vậy.
476. Ăn chay suốt đời cho tới tóc bạc, mà cái miệng chưa nói lời chay lạt, là còn đưa mình vào chỗ đoạ lạc của kiếp chúng sanh.
477. Tâm Ma:
Thấy Phật thì theo
Thấy Ma thì ghét
Tâm hồn ấy còn
Chứa đựng tâm ma.
Tâm luân hồi:
Mưu tính tương lai
Luận bàn quá khứ
Lòng còn dự trữ
Nghiệp quả luân hồi.
Tâm Phật:
Thấy Phật thì vui
Thấy Ma bình thản
Lòng hết gian đảng
Tâm Phật lộ bày.
480. Hãy để cho tâm yên lặng trong lúc nhập định tham thiền thì sẽ nhận được sự siêu diệu của Chơn Lý.
481. Niệm Hộ Pháp Chơn Ngôn là để quân bình tâm thức. Khi đạt tới chỗ quân bình thì đi theo Vô Biệt Niệm, hào quang sẽ kết nhân, Thiên Lý sẽ kết duyên, triền miên học hỏi.
482. Tâm còn động thì còn niệm. Tâm dứt động diệt niệm, là đi tới chỗ Vô Biệt Niệm. Đã Vô Biệt Niệm thì tự nhiên chúng sanh Hộ Niệm.
483. Ngộ được đường Đạo là để phá án mây của Ngũ Giới.
Đạt được chỗ chánh niệm thì tâm pháp quy không.
Đã quy Không thì Không còn mây để phá.
484. Học thì cần phải hỏi
Tu thì cần phải hành.
Luyện Đạo cần bí pháp.
Thức Đạo cần chơn giải.
Có thông suốt chỗ chơn giải, mới có đường giải thoát.
485. Diệt phàm tâm, quy Không động thì chơn tâm mở ra. Thấy Đạo là ánh hào quang Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Nơi đó là nguồn gốc của Đạo.
486. Giác và mê, chỉ trong giây phút hồi quang thanh tịnh, thì nó hiện ra rõ hết.
Đời hay Đạo chỉ nhìn vào cuộc sống của người hiện tại là biết rõ được ba kiếp của họ.
487. Tánh Thông:
Tánh Đạo chưa thông
Còn chỗ bất công
Tánh Đạo đã thông
Hài hoà công lý.
488. Kiến Tánh:
Thấy rộng biết xa
Không bằng kiến tánh
Bói hay bàn giỏi
Còn chỗ vọng tâm.
489. Địa Lý mà chưa học tới chỗ linh tâm thì chưa hiểu được cái diệu dụng của Trời Đất. Nếu đã học đến chỗ diệu dụng thì không làm nghề Địa Lý.
490. Thầy bói, đoán cho người thì hay, tính cho mình thì dở, là tại chưa thấu chỗ huyền cơ. Đã thấu chỗ huyền cơ thì xuất gia học Đạo.
491. Xưa nay Địa Lý tính xa
Tính tầm đất tốt làm Ma giữ hồn
Linh hồn bị huyệt nhốt vô
Cháu con hưởng phước mình khô héo hồn.
492. NGỌC ẨN - Viên ngọc sáng, cho dù có rớt giữa bùn nhơ cũng không bị hư ố. Còn người quân tử dù bị hạ đến mất sỉ diện, cũng không loạn đến tâm thân.
Ở trên đồi, trên núi cao, tùng bách cũng chịu nhiều phong hàn, tuyết giá bao phủ, bảo lớn gió to, nhưng nó vẫn không đổi màu thay sắc; sống hiên ngang giữa Trời Đất mà cũng không màng đến nắng sương.
493. Người quân tử có chí lớn, nên giữ trọn vẹn tấm lòng thành tín, để vượt qua khổ nạn, thoát gian nguy, mà sống trong tình Trời và tình nhân loại mãi mãi.
494. HẠNH PHÚC Ở ĐÂU? - Lập gia đình không phải là chỗ để gầy dựng hạnh phúc. Hạnh phúc chỉ đến với người chơn tu đạt Đạo. Bởi vì:
Hạnh phúc là vô hình.
Tình yêu là bất diệt.
Nó là vật vô hình, và cũng là vật vô sanh bất diệt, thì không thể lấy tình yêu của nhục dục mà đánh đổi nó được, bởi vì hửu hình thì hửu hoại.
495. Nam nữ lập gia đình là để thoả mãn lòng dục vọng của con người. Vì không giải thoát được, nên kiếm giới khác để bù đắp. Một khi lòng đã thanh thản thì Ma Lục Dục, Quỷ Thất Tình, cũng vô phương trú ẩn.
496. Hai tâm hồn mà chịu sống chung với nhau là để học rèn luyện những tánh tình kỳ cục nhất. Và học tập đức nhẫn nhục xây dựng gia đạo trong tâm hồn trách nhiệm 'thay Trời hành Đạo'.
497. THUẦN ĐẠO - Cái Đức đã sáng tỏ bên trong, cái Đạo hiệp làm một cùng Vũ Trụ.
Đức nhuần thì Thông công
Đạo hiệp vào Linh Thể
Cái đạo đức sáng từ bên trong sáng ra bốn phía, thì nhuần gội được cỏ cây, yên lòng bá tánh. Đó là Thuần Đạo rồi vậy.
498. TIẾN ĐỨC - Trí tuệ là cái Đạo khai mở ở trong lòng. Mỗi việc suy nghĩ đều được trung thực.
Còn sửa đổi đời sống và lời nói là cái hiện ra bên ngoài. Không có một câu nào mà không hiểu cùng tột của nó.
499. Sự trung tín là đi chung với lời nói.
Lòng thành thật là tạo nên sự nghiệp.
Hiểu biết tới chỗ cùng tột, việc làm thông thạo mạch lạc, giữ trọn nghĩa, là người nầy làm được việc lớn rồi vậy.
500. Khôn cũng chết, dại cũng chết, biết thì sống. Biết, đó là biết tu bổ sửa chửa cho tâm minh, Đạo đạt, nên không còn chết. Vì cõi đó Vô Sanh Bất Diệt.
501. Dùng hiểu biết của mình cho trong thiên hạ, thì sẽ trở thành người không hiểu biết. Còn kèm nhẹm nhân tài, sử dụng lòng vị kỷ, kẻ đó là giặc cướp sinh mạng của mình rồi vậy.
Chỉ có người biết lấy điều thiện của thiên hạ cho thiên hạ tu dưỡng đạo đức, và biết sử dụng sự thông minh của thiên hạ để giúp trong thiên hạ. Đó là dùng sự hiểu biết rộng lớn của mình để an trong thiên hạ.
502. ĐỢI THỜI CƠ - Hơi nước bốc lên còn phải đợi khí Âm Dương hoà hiệp để làm mây. Rồi còn phải đợi điềm Trời xuôi thuận là nơi nào, mới làm mưa xuống được.
Còn người quân tử nuôi tài đức mà chưa thi thố ra việc làm. Lòng còn mang túi đạo đức, ở yên để đợi thời Trời, an dưỡng để nuôi khí thể, yên vui thanh tịnh để hoà tâm chí. Đó là cách bình ái để chờ số mệnh. Giống như con đường Đạo ở giữa ngôi Thái Cực, tiến Dương trợ Âm mà vẫn trung dung chờ đợi người chơn tu trở về nguồn cội. Thì người quân tử hãy học theo cách nầy thì tự nhiên an phận.
503. TRÍ ĐẠO - Trí của người trong thiên hạ là muôn thứ khác nhau. Còn Chơn Lý của người thành Đạo thì chỉ có một. Cho nên bậc quân tử chỉ cần thông được Lý Đạo là có thể thông suốt được trí của thiên hạ.
Còn Thánh Nhân là coi lòng của nhân loại cũng như một lòng. Đó là thông về Đạo Lý.
Còn văn chương xán lạn, khi xét vào đâu thì sáng lý chỗ đó. Nên rõ về nghĩa đồng nhất thể, mà cùng đi theo luật Đạo của lòng Trời.
504. MINH TRIẾT - Có minh triết thì mới khai mở được trí tuệ, bảo tồn được thân tâm, sống vui an lạc. Sự giàu nhuận tao nhã, nhuần thấm khắp châu thân. Đức rộng về hiệp được với Thiên Chân thanh tịnh. Tâm hồn rỗng rang, linh thể tươi tốt, mà lại an nhiên độ lượng, quảng đại để nuôi chơn quang, dưỡng linh khí thân thể tươi tốt.
Khi tâm Đạo phát triển, thì tự nhiên tài vật sản nghiệp không coi trọng phần vật chất nữa, chỉ xem nhẹ chớ không bỏ bớt đi. Nếu có nhiều, dư, thì đem dùng vào việc hửu ích cho Đạo, phụng sự việc nhân nghĩa để cứu đời, giúp an bình thạnh trị. Giúp Trời trong việc xây đời Thượng Ngươn Thánh Đức, hoằng hoá độ sanh cho thiên hạ hưởng, nhờ cuộc sống sung túc an vui. Còn tâm linh lại được hướng dẫn đến chỗ tu dưỡng đạt Đạo.
505. ĐẠO TRỊ MÌNH - Người quân tử phải biết lấy mình làm gốc, trở lại mình lo tu thân, tề gia, trị quốc, rồi bình thiên hạ. Lập nghiêm cho thân mình trước, rồi mới đến đem luật pháp thanh thản, đạo đức nhuần thấm cho thiên hạ học theo, đó là trị an.
506. BIỂN YÊU
Hư Vô là một biển yêu vô cùng tận, mà lại thanh thản an vi như mới bắt nguồn tình yêu của đời Nguyên Thuỷ. Cho nên, làm người mới bắt đầu yêu, cũng đừng yêu quá mãnh liệt, vì nó sẽ trở thành một thứ tình yêu độc tài vị kỷ. Hãy nên yêu một cách thanh thản với cái thể di chuyển được tình Trời lớn rộng, cho linh khí tiếp rước linh hồn vào cõi Thiên Chơn.
507. TÌNH YÊU THIÊN QUỐC
Hớn Quốc nêu cao tình Thiên Địa
Long Hoa trống Việt trổ liên thanh
Tình yêu Tiên Phật ba nguồn hợp
Suối Đạo ban ra Pháp Thuỷ thành.
Tôi mới biết yêu lúc ngộ tôi
Hiệp vào biển Đạo của lòng Trời
Tình yêu bao phủ ba nguồn hiệp
Hạnh phúc sáng tròn mãi trong tôi.
508. PHÉP SỐNG LÂU
- Lòng luôn giữ trống việc tư dục ở đời, để bụng chứa đầy nguyên khí của Trời. Trí bình an, buông hết sự lo lắng nghĩ bậy. Đó là phép giữ trống lòng.
- Không theo sự xu hướng với Thất Tình Lục Dục. Học pháp môn thiền định để an dưỡng tinh thần cho ngươn Khí không bị hao hớt. Đó là phép chứa ngươn Khí đầy bụng.
- Mỗi tháng, mỗi năm, tuổi đời tuy lớn, nhưng tinh thần sẽ cải lão hườn đồng thì xác thân sẽ trẻ lại.
509. THUỐC TRƯỜNG SANH
Khử trược lưu thanh
Đạo yên sẵn dành
Vô vi thầm lặng
Sống an đừng rán
Đạo tự tịnh thanh
Sức đừng để nhọc
Tinh chớ tổn hao
Chơn tánh hiệp vào
Là thuốc trường sanh.
510. LÒNG TRỜI
Lòng Trời vô tư nên hiệp cùng Đạo
Tiên Phật thanh tịnh nên hiệp cùng Đạo
Thánh Nhân chí thiện nên hiệp cùng Đạo
Nhân loại trung hoà nên hiệp cùng Đạo.
511. TÂM KHÔNG
Tâm hồn của con người đạt Đạo nó trống trơn, không vương vấn, không có tư dục trở ngăn, thì đạo đức của Trời mới giao hội. Từ đó cửa thiêng liêng thông lưu với luồng linh khí của Vũ Trụ, làm sáng bừng Thiên Chơn cảm tính.
Buông tâm bé nhỏ cỏn con, không còn vướng mắc, thì mới giao tâm cùng Đạo. Khi hiệp được làm một với Đạo, nó như con số Không to lớn tròn đầy. Mới ngộ tưởng là vô hiệu lực. Chớ tu được linh khí ở đó để hiệp thân, thì chính mình được luyện trong Lò Trời đó vậy. Khi ứng dụng tới nó thì linh ứng vô cùng. Lúc đó mới biết sự trống không của Trời chứa đầy đủ pháp lực.
512. TÌNH YÊU THÁI BÌNH
Trời đã cho tôi một mối tình
Đem nguồn minh triết độ nhân sinh
Hoà cùng Tam Giới duyên học Đạo
Viết lại thành văn bút Thái Bình.
Tôi chứa trong tôi một khối tình
Hoà trong nhịp thở của nhân sinh
Hoà trong Vũ Trụ tình nhân loại
Đó gọi là tình yêu độ sanh.
- Hết -
Lý theo Khí Hoá mà chuyển thành Điển Giới
Điển hiệp thể âm dương mà tạo thành Văn
Văn do Linh Tâm của Thánh Nhân mà viết lại thành Sách để phục vụ cho Chơn Linh tu hành giải thoát.
Linh tâm cảm theo lòng Trời
Văn giải kinh để mà hành Đạo.
Chơn Lý rót mãi không đầy
Pháp Thuỷ ban hoài không dứt.
Kính Bái,
Vô Danh Thị.
Chơn Đạo Vô Hình.
Chơn Phật Vô Tướng.
Chơn Nhơn Vô Danh.
Chơn Tu Vô Tranh.
(Hết trang cuối.)
(Tiếp đầu trang 103.)
421. Tất cả các tôn giáo điều học một trường
Tất cả nhân loại điều có một Cha một Mẹ.
Người có tâm linh cao nhất là người có độ lượng nhiều nhất.
422. Một vị tướng tài giỏi về mặt điều hành quân đội, nhưng không thể coi thường việc nhân nghĩa của thiên hạ được.
423. Nhân tri thời vận còn mệnh ở Trời. Nếu Trời xuôi thuận thì thiên hạ theo về.
424. Việc nhân nghĩa cần người hợp tác bằng phương tiện và hành động, chớ không cần loại nhân nghĩa chỉ lý thuyết suông.
425. Văn chương phải đi chung với đạo đức. Võ học phải đi chung với võ đạo. Nếu tách nó ra thì không dùng vào việc gì được.
426. Dù có bịnh tật bất ngờ trong lúc luyện Đạo cũng nên lấy làm vui, vì có cơ hội trả nghiệp.
427. Có nhiều món nợ họ không chịu khất lại, ta cũng đành phải trả, chớ biết nói sao trong lúc nghèo khó. Hy vọng người ấy có Đạo Tâm mà thông cảm.
428. Ra đời hành Đạo là trở ngại muôn ngàn. Nếu đã đủ lòng vị tha thì gặt hái được nhiều kết quả về sau.
429. Cho dù người cha có khắt khe cho lắm cũng vì sợ con không được thành nhân. Nếu con đạt được thì thấy người Cha đó trở thành dễ chịu nhất thế gian.
430. Thái Bình khôi phục sẽ không còn biên giới.
Đạo đức thạnh vượng sẽ không có chiến tranh.
Quốc gia giàu mạnh sẽ không còn đói khó.
431. Quân trong nước là con của bá tánh hiệp lại. Bậc nhân nghĩa xin đừng xé lòng của bá tánh.
432. Tiếng nói không lời mà người hành Đạo chỉ biết thuận theo mệnh Trời mà làm việc. Bởi vì họ đã nghe được tiếng nói của Hư Vô hiệp với chơn tâm của họ rồi vậy.
433. Nước từ trên nguồn đổ xuống theo sông rồi ra biển. Nước từ biển bốc lên làm mây mưa rồi lại đổ xuống trên nguồn. Vậy chỗ nào là cao của Pháp Thuỷ?
434. Thanh là khí của Trời mà ra.
Hoà là khí từ người mà có.
Thanh mà chưa tu tịnh là khí của Trời còn bị kẹt.
Hoà mà không xuôi thuận là khí trong người còn phân biệt.
Vì còn bị kẹt cho nên Thượng Đế cho thi cha, thi thầy, rồi thi huynh đệ.
435. Cho dù con cá có lớn đến bao nhiêu, cũng nhờ nước mà trưởng thành. Nhưng tại sao cá không chấp nhận nước là mẹ của mình? Vì không chấp nhận nên cá lẩn trốn hoài, nhưng vẫn không thoát khỏi sự nuôi dưỡng của nước.
436. Bồ Tát có ba cách tu: một là Tu Phước; hai là Tu Huệ; ba là Tu Phương Tiện. Người mà làm được một trong ba cách trên thì không còn sợ trể.
437. Phong vũ là điềm của Trời hiện diện mọi nơi. Mạnh thì làm vũ bão. Yếu thì làm giọt sương lành. Luôn tưới mát lòng người, nhuần thấm cây cỏ.
438. Giọt sương lúc nào cũng ngọt và mát. Tuy bay giữa Trời thanh cao mà lại cô đơn thanh nhẹ. Nếu ngày nào nó kết lại với mây, làm được mưa, thì chắc nó vui lắm nhỉ?
439. Đêm đêm thảo mộc còn biết ngậm sương để trưởng thành. Các loài thú cầm cũng biết ngậm ngọc để rèn Tâm Pháp, để đắc thành Tán Tiên. Còn người thông minh phải biết ngậm Mô-Ni-Châu để luyện thành chánh quả.
440. Tinh tú là các vì sao sáng như cặp mắt của chư Thần đang chiếu rọi xuống trần gian. Nếu người mà được nó chiếu rọi thì chơn tâm sẽ bừng sáng, giác ngộ được chơn lý.
441. Hằng Nga là cây đèn của Trời, soi sáng muôn phương trong đêm dài lặng lẽ; chỉ đường cho nhân loại đi theo. Cho đến khi tâm mình lại là trăng lúc đó mới là bậc ngộ Đạo.
442. Đời là một bãi trường thi.
Đạo là một cơ huyền bí.
Nhẫn được ở đời là để rèn tâm.
Nhịn được trong Đạo là để rèn trí.
Đó là người đang cầm chìa khoá của Phật pháp rồi vậy.
443. Người học Đạo không nên chấp Không mà không chịu học Kinh Luận, vì như vậy sẽ làm hạn hẹp kiến thức của mình. Nhưng cũng đừng nên mê vào văn tự nhiều quá, vì sẽ bị nó trói buộc vào văn minh khoa học thì sẽ không giải thoát được Chơn Linh. Còn người mượn đó để học, để biết, thì cái biết đó rất hửu ích.
444. - Điển Văn là lý cảm ứng của Vũ Trụ, càng cảm nhận thì nó càng ứng biến vô cùng.
- Điển Tâm là lý siêu hình, nó là Thần Thông Diệu Pháp, là Pháp Lực của Chơn Đạo.
Người học Đạo phải luyện đến Linh Khí của Hư Vô thì mới đạt được Điển Tâm tròn đầy của Vũ Trụ.
445. Con cá mà muốn được hoá Long còn biết trầm mình giữa biển sâu tu luyện. Còn người muốn đạt Đạo thì phải biết an phận mình giữa cảnh phồn hoa đô hội. Đó là cách an phận để thành Đạo.
446. Đạo hạnh của Bồ Tát là luyện khổ để rèn tâm; học nhẫn nhục để luyện tánh. Khi tâm tròn tánh đầy là lúc đi cứu khổ ban vui rồi vậy.
447. Không khí đi khắp nơi nơi, ở trong mọi vật, thì ánh sáng của Đạo cũng hiện hửu trong khắp không gian và Vũ Trụ.
Tâm động thần giao là nhờ Đạo hiện ở mọi nơi nên trở thành Linh Pháp để cứu độ nhân sanh.
448. Không có khổ ải thì không có sự trưởng thành.
Không có đau thương thì nghị lực yếu ớt.
Khổ ải để rèn dũng chí. Đau thương là rèn tâm pháp của con người để sớm thành chánh quả.
449. Trái cây trên cành ngọt chua còn có lúc khác nhau. Lòng người mà chưa thanh tịnh chẳng khác nào như quả chua, càng ăn vào thì càng thấy chua chát. Nếu để cho nó chín rồi mà ăn thì không còn thấy chua nữa.
450. Vật nặng thì chìm xuống. Vật nhẹ thì bay lên. Cũng như con người lúc thanh nhẹ thì thanh thản, lúc ô trược thì lại u buồn. Vì vậy người mà đạt Đạo sẽ đi ngoài sự phiền muộn vui buồn của nhân thế.
451. Mưa pháp ban ra là mong tưới các cây Nguyên Linh đâm chồi, trổ nhuỵ, khai hoa.
Phật Pháp ban ra là mong tìm được người truyền đời phổ Đạo.
452. Khổ để rèn Tâm.
Khó để rèn Chí.
Trở ngại để rèn lòng trung dũng.
Nếu không có những cái nầy thì không có người thành Đạo Lớn.
453. Con cá lớn mà muốn thoát ra khỏi nước, đi tìm hoài mà vẫn không có đường thoát khỏi nước. Cá mới hỏi Bà Nước.
Bà Nước nói: "Con sống cũng nhờ ta, con chết cũng nhờ muối của ta."
Vì vậy: Cá sống nhờ có nước. Người sống cần có Đạo.
454. Lúc mới học Đạo như người vào trường Đại Học để học nghề. Người đã quyết lòng tu học thì không nên có tánh lưỡng hai. Vì cái tánh lưỡng hai là ma chướng đoạn tuyệt nhân duyên của người học Đạo.
455. Gió lớn mưa to không đáng lo sợ, mà đáng lo sợ nhất là lòng trở ngại của con người.
456. Đã chịu ra biển khơi thì đừng sợ sóng lớn.
Đã tu Đạo Lớn thì đừng sợ sóng đời vây bủa.
457. Muốn tu giải thoát, Đạo quả lên cao, dù cho gặp sỉ nhục đến chết hết cả danh dự. Nhưng nhờ nó mà diệt được lòng phàm, để cho lòng đừng theo đó mà chết thì sẽ trở thành bậc vĩ nhân.
458. Thấy được, nghe được, biết được, nói được, là phàm tâm phán xét.
Không thấy, không nghe, không đến được, mà mình hiệp được, đó là bậc siêu nhân.
Đã là bậc siêu nhân thì nhân loại kỉnh học.
459. Trời Đất lấy 36 pháp Thiên Cang hiệp lại thành một vòng, làm một chu kỳ vận chuyển. Còn người lấy 36 tuổi làm nửa chu kỳ, 72 tuổi làm một chu kỳ. Cho nên việc gì ban ra cũng sẽ được nhận lại là vậy.
460. Người tu là tin có Trời, có Phật. Vậy hãy đem hết sự quyết định của định mệnh mình mà giao phó cho Trời, thì linh tâm không còn gặp trở ngại nữa, và sẽ sớm thành chánh quả.
461. Xuân Hạ Thu Đông, bốn mùa luân chuyển, mà không có mùa nào giống mùa nào. Vì vậy người học Đạo đừng mong kinh Phật có trang cuối.
Bởi vì:
Đường đời có đoạn cuối.
Đường Đạo thật vô biên.
462. ĐẠI HIẾU CHƠN TU
Là học sinh, thi mãn khoá mới biết đậu hay rớt. Còn người mới đi tu, đừng sợ mình là kẻ bất hiếu, không làm tròn bổn phận với gia đình. Bởi vì, khi chưa xuống lỗ thì chớ vội lo mình tròn bổn phận hay không; chưa hết cuộc đời đừng vội trách người tu là bất hiếu. Chỉ có người đi tu mới tròn đầy hiếu đạo và siêu thăng được Cửu Huyền Thất Tổ.
Gia đình nào có con đi tu là giải được ba đời nghiệp chướng của tiền căn, mà còn hưởng được phúc báu ba đời của người chơn tâm đi tu hành Đạo.
Khi xưa Quán Âm, Thích Ca, Di Lạc, đi tu cũng đều ly gia tầm sư học Đạo. Khi đã đạt Đạo lại siêu thoát được cha mẹ ông bà và chín đời Cửu Tổ. Đó là tấm gương lớn cho bậc có linh tâm.
(Hết trang 113.)
(Tiếp Đầu Trang 94.)
392. Đi tu không phải bỏ đời.
Cầu Đạo không phải lánh đời.
Đi tu được an thì lấy an mà độ đời.
Cầu Đạo được tỉnh thì lấy tỉnh để thức người.
393. Trời trồng cây Nguyên Linh.
Người trồng cây Lương Tâm.
Đạo đức trồng người Chí Thiện.
Có trồng được người Chí Thiện thì thiên hạ mới có bậc Minh Sư.
394. Người Hiền Nhân đại diện đức lớn của Trời.
Người Đạo Nhân đại diện đức lớn của Phật.
Không nên hại người hiền, hại người hiền Trời phạt.
Không nên hại người Đạo, hại người Đạo muôn đời không được siêu sinh.
395. Giống lành nghe kinh thì lãnh hội.
Đạo lành nghe kinh thì tỏ ngộ.
Người được vậy là đã lộ chơn tướng Phật Pháp Tăng rồi vậy.
396. Nước bình thì dân an.
Nước chiến thì dân loạn.
Bậc quân tử nên yên việc nước trước việc của mình, thì thiên hạ tự yên.
397. Lo cái lo trước của dân.
Thấy cái xa ngàn dặm.
Hiểu biết trên bậc hiền sĩ.
Mà lại vui sau cái vui của thiên hạ.
Đó là bậc quân tử tuỳ cơ mà tri nhân tâm rồi vậy.
398. Người còn mê cho Đạo là xa.
Kẻ giác nhìn Đạo trước mắt.
Thấy việc thiện không thể bỏ, đó là đạo đức của người chơn tu.
399. Thấy việc thiện ta nên tích luỹ.
Nó vốn là báu quý độ đời
Tu tâm thiện đức không rời
Mong khai ruộng phúc ở nơi Thiên Đàng.
Lòng hành Đạo kho tàng là thiện
Độ cho người là tạo thiện duyên
Tích vàng thác chẳng mang theo
Tích ngàn việc thiện Thánh Tiên rước về.
Lấy châu báu đem ra làm phúc
Đó là đem đạo đức về Trời
Độ nhân, Trời độ con ơi
Tình con lớn rộng Đạo Trời hiệp tâm.
Ai mà biết thường làm điều thiện
Bố thí đi thiện đức tái bồi
Của tiền hỷ xả ban vui
Cho người nghèo khổ là nuôi thiện từ.
Còn biết Đạo giúp đời phương tiện
Là thay Thầy Hành Đạo Thế Thiên
Con tu thấy cảnh Đồ Thiên
Là Thầy đã rước con hiền hồi quê.
Cửa thiện đức Bồ Đề căn gốc
Tâm thiện lành là đọc ý Trời
Từ bi ban bố cho đời
Là con trồng ruộng trên Trời Đại La.
400. Nếu đạt Đạo được thì không bao giờ mất.
Còn hạnh đức hành được thì không bao giờ chê.
Hai cái đó nó luôn sống mãi trong lòng người.
401. Luyện Đạo có lúc trồi, lúc sụt, lúc tịnh, lúc động, đó là còn vọng tâm cầu an. Còn lòng đã an, tự nhiên thanh tĩnh vô vi lặng lẽ.
402. Cha Mẹ dạy con còn có chỗ chưa dạy.
Còn Trời dạy con thì đến chỗ toàn giác.
Một khi Trời đã dạy thì không còn phương trốn thoát.
403. Phật đốn nhờ tâm pháp ngộ Không
Vía Hồn hội tụ lẽ Nhân Ông
Tiên tu nhờ pháp thành Chơn Giác
Gom lại Ba Nhà rõ Tổ Tông.
Phật hội Tâm Vô nhập Niết Bàn
Tiên chầu Ngọc Đế sáng Linh Quang.
Ngũ Khí Triều Ngươn Tam Thanh Hội.
Đốn ngộ nhờ cầm gậy Kim Cang.
Phật kết Huệ Tâm ở Hư Không
Lò Trời trui luyện đạt Chơn Thân
Tiên vào Bát Quái Lò Thiên Điển
Rèn luyện cho rành Ngọc Hư Không.
Phật giảng chánh kinh pháp Bảo Toà
Tiên ngồi nhập định Đạo đầy kho
Phật cười giao điển Tiên Thiên tiếp
Anh trước em sau Đạo tròn vo.
404. Ai muốn vào Thiên Đàng thì phải dọn mình cho sạch để khỏi bận lòng với Chư Tiên.
405. Không có người Mẹ nào thương con cho bằng Đức Từ Mẫu - Diêu Trì Kim Mẫu.
Không có người Cha nào thương con cho bằng Đức Chí Tôn - Ngọc Hoàng Thượng Đế.
406. Thượng Đế thường nghiêm, nhưng rất từ bi, bên trong chứa đầy bao dung độ lượng.
Phật Mẫu rất chìu con, nhưng Ngài rất hài hoà dạy dỗ.
407. Bịnh do tánh sanh.
Tánh do chất độc phát khởi.
Chất độc do gia vị tạo thành mà nhiễm vào chân tánh ở trong các Ngũ Tạng, đầy khắp cả trong kinh mạch, nên phát khởi bịnh. Vì vậy mới nói bịnh do tánh sanh.
408. Tình thương của Mẹ Diêu Trì
Thương con trong Đại Từ Bi của Trời
Thương con mà Mẹ nghẹn lời
Nhìn con lệ đổ tuôn rơi hai hàng.
Tình thương của Mẹ Thiên Đàng
Biết bao trìu mến muôn ngàn quý thương
Độ con trở lại Thiên Đường
Cho con hiệp mặt tình thương của Trời.
Con ơi tình Mẹ sáng ngời
Đêm đêm dẫn độ không lời, lặng thinh
Chiếu cho ngòi bút Thái Bình
Sớm thành Đạo Lớn giảng kinh độ đời.
Cho con thay Mẹ con ơi
Hành hương xứ xứ độ người lai kinh
Biết bao chơn lý hành trình
Ban lời châu ngọc con minh viết bài.
Tâm thành làm việc cho Thầy
Mẹ đây ban điển con say Đạo Mầu
Từ bi tình Mẹ bắt cầu
Cho con viết lại những câu thiện từ.
409. Nhân quả là cánh cửa Vô Vi. Cho nên luật tiến thoái đã hiện rõ ràng trước mắt. Trồng nhân gì thì hái quả nấy, không thiên lệch.
410. Chỗ cao nhất là chỗ lạnh tột cùng. Nơi phú quý tột đỉnh là chỗ cô đơn nhất. Ai có nếm qua mới thấy mùi vị của nó.
411.Gieo nhân cho đời kế tiếp là bổn phận của cha mẹ. Truyền nhân cho đời kế tiếp là bổn phận của các vị chơn sư.
412. Học Đạo đừng nên gấp gáp, mà hãy giữ lòng bình thản. Khi vạn sự được lập lại trật tự thì tâm Đạo cũng theo đó mà phục hồi.
413. Người tu có hạnh hoà đồng tôn giáo, là trong người đó có đức lớn của Trời Đất, có hạnh lớn của các vị giáo chủ rồi vậy.
414. Đứng trước Thiên Chúa trăm họ như con. Tất cả như cừu non vô vi thanh tịnh.
415. Tuổi trẻ, cái yếu nhất là dễ tin, cái khó nhất là không biết tự trị chính mình. Nếu tự trị được cho chính mình là tuổi trẻ sẽ thành công lớn.
416. Tuổi trẻ mà biết kiên nhẫn học tập, tu bổ sửa chửa cho bản thân, sẽ sớm trở thành người đại diện tinh thần cho nhân loại.
417. Tất cả tuổi trẻ là ánh sáng của nhân loại, là nhân chứng của Trời Đất, là thành đồng cột vàng của tổ quốc.
418. Làm trai mà siêng năng tu học, làm gái mà có đủ Công Dung Ngôn Hạnh. Đó là những người nhân tài của xã hội hiện tại.
419. Núi cao để rèn lòng dũng sĩ.
Đường xa để thử dạ kiên trì.
Núi tuy cao nhưng trí ta lại cao hơn.
Đường tuy dài nhưng ý chí ta lại dài hơn.
420. Không bỏ cũ, không theo mới, mà chỉ theo những cái hay để cầu học. Đó là người hiền tài lương tướng vậy.
(Hết trang 102.)
(Tiếp Đầu Trang 84.)
362. TRAI GÁI
Trai không Đạo sanh lòng uỷ mị
Gái vô tâm luân lý chẳng gìn
Đời sanh ra thất đức loạn luân
Đạo sanh chỗ mê tâm đồ khỗ.
Người học hành phải thường tu bổ
Cho nhân tâm vào chỗ Huyền Hoàng
Lỗi mà biết sửa thì sang
Còn theo nhục dục tam quan đục ngầu.
Sanh ra cảnh đầu trâu mặt ngựa
Tại kiếp xưa lầm lỗi chẳng chừa
Nhìn thú cầm biết rõ tội xưa
Nay giữa thế kẻ bò người lết.
Nếu cảm ứng những điều thấy biết
Hỏi lương tri có thiết tha không
Lòng mình còn đục, lóng trong
Tánh mình mê dục, giải thông cho rồi.
Cửa Lục Dục do nhân nhồi quả
Đường luân hồi nghiệp cả đeo mang
Ba lòng sáu tánh chưa an
Mà tu Đạo Lớn lại càng rối tâm.
Đạo tự hối rồi tâm sám hối
Cho ba dòng sông tội sạch thanh
Trước sau đạo đức thiện lành
Mới mong hiệp được Tam Thanh của Trời.
Lời đạo đức Đạo Trời phải 'đốn'
Cho mọc ra một ngọn Bồ Đề
Để chúng sanh thoát mùi mê
Mê mà giác được mới về tự nhiên.
363. Trược nhờ pháp để khử
Đạo nhờ tu mới giác.
Thiền nhờ ngộ mới thông.
Luyện nhờ thanh mới tĩnh.
Có đạt được chỗ thanh tĩnh mới giải thoát đời đời.
364. Minh tâm nhờ kiến tánh.
Đạo thuần nhờ tánh an.
Đức trọng nhờ tu luyện.
Có tu luyện khổ hạnh, thì mới rèn được tâm, minh tánh Đạo, để thành Đạo.
365. Chấp thiện ghét ác là còn mê. Lòng thiện cứ làm, việc ác không để ý, đó là đạt được thiện tâm. Còn khi nào thiện ác không sanh thì mới thật sự là tâm chí thiện.
366. Hạnh nhờ đức để gieo nhân.
Đạo nhờ pháp để truyền nhân.
Đã tầm được người truyền nhân là trồng được Đạo Lớn.
367. Pháp nhờ thí ngôn mà người được ngộ tánh.
Đạo nhờ tu nhân mà người được thành Tiên.
Cho nên thí ngôn, thí pháp, độ nhân, truyền đời, là bốn công việc của người thành Đạo không thể thiếu được.
368. Trước khi học Đạo phải lập đức dưỡng tâm.
Sau khi học Đạo phải an phận tịnh tánh.
Có làm được như vậy thì học Đạo mới giác tánh độ tha, truyền đời phổ hoá.
369. Tịnh tâm đã mở, thấy biết được cõi Vô Vi. Càng thấy biết nhiều, phải càng thanh tịnh cho hiệp một cùng Đạo. Còn đem nó ra mà bàn luận thì không nên, tâm sẽ bị hạ tầng công tác, và muôn năm nghiệp Đạo không thành.
370. Thấy được Thiên Tôn, biết được Phật Tánh thì hãy để cho nó tự yên tịnh, tự phát, tự sinh, tự dưỡng đạo đức. Không nên lấy đó bàn ra, vì Đạo sẽ hết linh nghiệm.
371. Thiên Lý chỉ có ứng tâm, nghe cũng ở trong tâm, thấy biết cũng ở trong tâm. Còn nghe thấy biết theo trí xét của mắt mũi, là còn bị Lục Căn phỉnh dỗ.
372. Các Thần Tướng hiện thân trước mắt có khi là Lục Thân hoá thể. Hãy giảng kinh thuyết pháp cho tụi nó quy Đạo.
373. Độ mình là minh giải.
Độ người là tiến giải.
Độ thiên hạ là tự giải.
Thiên hạ có tự giải thì mới đạt chỗ tự thoát.
374. Thương người là Nhân đạo.
Độ người là Minh đạo.
Đạo trong Nhân thì giải đời thoát Đạo.
Đạo trong Minh thì sáng, sáng mình và sáng họ.
375. Giải được tâm mới mở trói.
Kèm được tánh mới nhốt cọp.
Phải cần tu dưỡng dài hạn thì mới tập cho nó thuần Đạo.
376. Đứng trước ánh sáng thì phía sau có bóng tối.
Đứng trước bóng tối thì trước sau đều tối.
Người ở chỗ tối ra hiệp được ánh sáng nhưng vẫn còn một nửa bóng tối. Khi nào ánh sáng bao trùm hết bộ đầu thì bóng tối mới tan biến.
377. Đạo Hư Vô là Thầy.
Đạo Thái Hư là Cha.
Đạo Hửu Sắc là Mẹ.
Thầy thường không nói mà dạy ở trong tâm.
Cha thường nghiêm huấn, hiền dữ đều kính sợ.
Mẹ thường nuông chìu nên được thương yêu.
Con hay thì theo Thầy.
Con ngay thì theo Cha.
Con cưng thì theo Mẹ.
Đạo Lớn làm Thầy.
Đức Lớn làm Cha.
Nhân Lớn làm Mẹ.
Đó là kinh của Tam Giáo, Đạo của Trời Đất.
378. Người trung nghĩa là: nghèo thì tương trợ, khó thì cùng chia, khổ thì đồng chịu, khi giàu không tranh danh, không đoạt lợi.
379. Người chí hiếu là: thấy Đạo cầu tu, thấy đức cầu xuôi thuận, thấy nhân nghĩa thì phò, thấy Đạo Lý thì học. Trên hoà chớ không đồng loã. Dưới thuận chớ không nịnh bợ.
380. Người có lòng tham ác là một con Quỷ Đói, ăn hoài không no, hại đời mà thấy chưa thoả. Đói lại đói hoài nên nhân loại gần họ thì đại loạn.
381. Phúc điền là mảnh đất linh ở trên Trời.
Là Xá Huệ Quốc của Kim Tiên Ngọc Phật
Còn độ lượng rộng lớn là chỗ cấy phúc điền nơi quốc độ của chư Phật.
382. Chặt một đường gươm để thay đổi vị trí.
Giác một lý Đạo để thay đổi một quan niệm sống.
Thuyết một thời pháp để cho người tự giải thoát.
383. Sức mạnh của Đạo là vô hình. Tuy không thấy mà linh ứng muôn nơi, vạn nẻo.
Người muốn hiệp với sức mạnh của Đạo chỉ có hàng Chí Nhân mới làm được.
384. Đạo đức là cây thước vô hình đo được lòng nhân của các giới.
Tâm đức là kho lớn của Trời chứa hoài không hết.
385. TỰ TÁNH
Bồ Đề có trong tánh
Thì nó tự biết sanh
Phật pháp có trong tâm
Thì tự nó biết thâu.
Đạo pháp đã minh giải
Thì tự ngộ nhân luân
Nếu mưa pháp chưa mạnh
Thì không có Đạo Lành.
Giống Phật là vô giá
Đạo Học là duy tâm
Nếu tâm chưa khai trổ
Là Tâm Phật chưa sanh.
Tâm chẳng có Phật sanh
Coi là giống không lành
Dù ngâm trong ao pháp
Chỉ thêm ố mùi tanh.
Hiện nhân nên nhớ kỹ
Thiên Lý không chìu nhân
Luyến tình chúng-sanh-tánh
Hiệp nó là vô nhân.
Phật chẳng ở ngoài nhân
Nhân không giống của Phật
Rừng hoang đất hoang trống
ước công trồng.
Nếu nó có sanh ra
Giống Bồ Đề thiện đức
Nếu tối đen như mực
Là không giống Như Lai.
386. Ngọc không giồi không sáng.
Đạo không nhồi không thức.
Đã thức được Đạo thì kể từ đó tiến đức tu thân.
387. Kẻ có ác tâm mà không chịu diệt cái ác tâm đi, thì sẽ sanh ra cái bịnh bè phái, phân chia. Để rồi vui lòng chôn mình ở Địa Ngục muôn đời không thoát.
388. Linh tâm, mở được nó ra, thì tình yêu nhân loại tự nhiên được khôi phục. Và dấn thân hành Đạo và học Đạo vô quái ngại.
389. Tiến phúc tu nhân là con đường lớn cho người hành Đạo.
Tích đức luyện Đạo là cái duyên cho mình hiệp Đạo.
390. Làm người là theo ý của mình.
Hành Đạo là theo ý của Trời.
Gieo nhân là theo ý của thiên hạ.
Khởi điểm còn do nhân ý.
Vào Đạo tự hiệp một với Thiên Ý.
Nhờ vậy mà chia cho khắp cả thiên hạ vẫn còn đầy.
391. Lên trời, xuống đất, ra khơi, không có ở đâu yên tịnh cho bằng ở trong tâm. Khi tâm được hiệp với Đạo rồi, thì an nhiên thanh tịnh.
(Hết trang 93.)
(Tiếp Đầu Trang 75.)
332. Người cầm súng muốn bắn xuống thì phải vươn lên, muốn bắn lên thì phải hạ xuống, vậy mà không bắn được chỗ Không Tâm.
Không Tâm là chỗ huyền biến của con người.
Không Tên là chỗ giải thoát của Đạo.
333. Gần Bạo Quân như gần cọp; muốn ăn mình lúc nào cũng không hay.
Gần Thánh Quân như gần Trời; đang cất nhà lớn cho mình dưỡng Đạo.
334. Giảng Đạo độ đời là việc bậc chí nhân thành Đạo. Còn người mới tu nên yên lặng để mà tu. Không nên tỉnh ai trong khi mình chưa tỉnh được đạo đức ngàn năm mờ tối của chính mình. Nếu mình tỉnh được mình rồi thì thiên hạ tự tỉnh.
335. Đạo thanh thì tánh liêm.
Lòng công bình thì tâm minh chánh.
Nhờ vậy mà đại diện được hàng đạo đức.
336. Con chim sáo và nhà sư, hai bên điều nói được tiếng người, điều thuộc các kinh sách. Nhưng tại sao vị sư thành chánh quả mà con sáo vẫn còn nguyên thế?
337. Đèn sáng để soi đường.
Tâm sáng để soi Đạo.
Tu hoài mà chưa thấy sáng đó là đèn lương tri còn tối. Coi chừng làm việc bất nghĩa.
338. Con cọp dữ không đáng sợ vì còn có thể trị được. Nhưng xưa nay không ai trị nổi lòng băng hoại của con người. Chỉ có cách là tự hồi sinh.
339. Soi đường, soi người, việc đó không cần thiết với người học Đạo. Người học Đạo tự soi tỏ tâm mình, tự học tự đi là rút ngắn được ngàn năm luyện Đạo.
340. Thấy mạnh thì theo, thấy yếu thì bỏ, là người chưa biết cái hửu dụng của Đạo. Vì Đạo:
Mạnh làm như yếu.
Yếu làm như an.
An làm như yên.
Yên làm như tịnh.
Người có làm được như vậy mới thành Đạo lớn.
341. Mặt trời chiếu sáng mọi nơi mà còn có hang luồn ngỏ tối chưa rọi tới. Lòng người tráo trở thì Trời Đất cũng bó tay, Đạo Gia cũng không còn phương pháp cứu độ.
342. Cơ hội đến mà mình không biết nắm, đạo đức đến mà không biết bố thí và học tập, người đó chưa đủ nhân tánh để dưỡng Đạo.
343. Sóng lớn biết né thì khỏi.
Gió lớn biết núp thì yên.
Chỉ có Đạo Lớn mới thể hiện ra hết cho người người tu dưỡng.
344. Tài mà không đức là tài thô.
Đức mà không Đạo là đức nhược.
Đã đến chỗ thô nhược thì không dùng vào việc chi được.
345. Thánh là sáng.
Đạo là tròn.
Ánh sáng đã tròn đầy thì hiệp làm một với Đạo, thì soi đâu tỏ đó.
346. Đạo đức cho đến chỗ chung thuỷ thì không bao giờ dám chế cho đầy, vì sợ bị tràn; không bao giờ dám chao, chao thì sợ đổ.
347. Nhân Tướng là người tu dưỡng có độ lượng. Trên biết kính Trời, dưới biết dụng người, an lòng bá tánh. Lập đức cho thiên hạ xuôi thuận. Lập Đạo cho thiên hạ tu dưỡng. Tinh thông mậu dịch để nuôi người. Phân xử đúng Đạo cho nhân phục. Nhân đã phục tùng thì thiên hạ mới thạnh trị.
348. Văn Tướng không tu Đạo, chỉ có chỗ lý chưa có kiến thuyết, càng nói càng xa luật. Khi nào có Đạo thì lý cùng thuyết mới thông suốt, Đạo và luật sẽ được minh chánh, để cho thiên hạ kỉnh phục.
349. Thiên Tướng là phải thông thiên văn, đoán biết được phong võ thời tiết, biết được lòng Trời, an được sự vật. Trong nghiêm với mình, ngoài rộng với người, thưởng phạt nghiêm minh cho quân bình đều phục.
350. Địa Tướng là thông đạt địa lý, độn giáp thiên cang, điều binh bố trận. Biết phong thuỷ, sơn lam chướng khí, địa nhiệt sanh ra bịnh phong thấp, sốt rét. Biết đường thuỷ vận, biết lối sơn cước, biết lộ vào thành, trọng binh như trọng mình, quyền biến có đủ.
351. Võ Tướng không tu Đạo, chỉ dùng được cái oai lực chớ chưa dùng đến chỗ nghiêm minh. Còn Võ Tướng mà có Đạo thì oai nghiêm đầy đủ, đức độ vẹn toàn.
352. Việc võ không thể giao cho quan văn làm. Việc văn không thể giao cho quan võ làm. Chỉ khi nào vị ấy văn võ song toàn.
353. Người mới tu:
- Tuy thuộc văn học của Đạo, chớ chưa biết cách luyện Đạo.
- Tuy có phép luyện tập chớ chưa thông hiểu.
- Đã thông hiểu thì xin lãnh hội mật pháp.
- Đã học được mật pháp thì họ tự biên, tự diễn, mới đủ trí tuệ để đạt Đạo.
354. Nếu ăn được no hoài thì người ta sẽ không bao giờ đói. Vì vậy học Đạo cũng không bao giờ hết, xin đừng có dừng. Nếu đã dừng thì trở về lại lúc ban đầu. Vì Đạo là khí hoá, không tiến thì lùi, chớ không có đứng yên một chỗ.
355. Đạo muốn giữ được vĩnh viễn, thì phải tu cho tới khi nguyên khí tròn đầy. Khi tròn đầy thì không bao giờ tuột nữa.
356. Quý tiền của, khi chết tay không.
Quý nhân nghĩa, khi chết nó luôn sống mãi.
Quý châu thân, khi chết được giải thoát.
357. Lúc tịnh đừng khởi động. Lúc động đừng khởi tịnh.
Vì làm như vậy động tịnh sẽ giao chiến lẫn nhau.
Lúc động thì biết yên nghỉ. Lúc tịnh thì biết thanh thản. Có vậy mới hiệp Đạo.
358. Người mới học Đạo phải xa động tìm tịnh, cho thần khí được bình an, lưu thanh khử trược. Khi đã đạt Đạo, thì vào động tầm tịnh. Nếu tịnh được, là người đạt trọn vẹn sự thanh tịnh.
359. Người đời quý tiền của.
Người hiền quý nhân nghĩa.
Người có Đạo biết quý châu thân.
Vì nhờ châu thân để luyện tập thành chánh quả.
360. Học Đạo đừng cầu chứng, cầu sẽ biến chứng.
Tu Đạo đừng cầu đắc, cầu sẽ gặp ma chướng.
Học thì cứ bình thản. Tu thì cứ an nhiên. Từ từ đến mùa thì tự nhiên có hoa có quả chớ lo gì.
361. Có thân nên quý châu thân
Sanh ra một kiếp nghĩa nhân vẹn toàn.
Lúc sanh bé nhỏ cỏn con
Người thương kẻ quý như hòn bảo châu
Thành nhân luân lý bắt cầu
Chết thì bất tử Năm Châu kính thờ
Còn người muốn đoạt huyền cơ
Mượn thân tu luyện vào bờ Thiên Tiên
Bước vào các cõi Linh Huyền
Để thân thành một Máy Thiên của Trời
Quý thân châu báu còn thua
Có thân mới học Đại Thừa nhờ thân
Đạo lành nhờ có Kim Thân
Người thành nhân được nhờ thân tu rèn
Tu cho thân tỏ ánh đèn
Tròn đầy sanh Thánh, hết hèn thành sang
Bước vô các cõi Thiên Đàng
Kim Tiên Ngọc Phật hào quang diệu huyền
Dù không có muốn làm Tiên
Cũng là Đại Thánh của miền thế gian
Có thân nên luyện thân an
Đem nguồn bảo pháp Kim Cang của Trời
Hiệp vào nơi cõi không lời
Không tên, không tánh, Đạo Trời mới linh
Giải rồi Tam Thế Lưỡng Hình
Thoát ra, vào cõi quang minh đời đời.
(Hết trang 83.)
(Tiếp đầu trang 64.)
290. Tâm hồn thanh không thích nhiễm trược.
Người thật có đạo đức không thích giành giựt đồ ô nhiễm.
291. Người Bá Đạo dùng lời hay, hành động tốt đẹp, để che mắt thế gian; lương lẹo ngoài vòng luật pháp. Nhưng không tránh khỏi luật luân hồi và thọ tội ở Địa Ngục.
292. Trời đất bao la, người đạt Đạo gom lại trước mắt. Tiên Phật tuy thần thông người đạt Đạo làm bạn không khó.
293. Nhân định tại Tâm.
Thiên định tại mệnh.
294. Dòng nước còn có thanh trược lộn lẫn vào nhau.
Dòng Đạo sau trước một đường trung chính.
295. Văn chương dùng đúng chỗ, Đạo Lý dùng đúng phương pháp, thì nó là cây chìa khoá đó vậy.
296. - Cây Trúc không tâm, đại diện cho Đạo Bồ Tát Giới.
- Tòng Bá bốn mùa không đổi màu, đại diện cho hàng hiền nhân quân tử.
- Hoa Sen ở trong bùn không nhiễm, đại diện cho người tu luyện Đạo Gia.
297. Nhìn người chưa hiểu chiều sâu
Làm sao thấy rõ đuôi đầu mà chơi
Ai ơi muốn giữ chữ bền
Muốn tìm bạn nghĩa chớ quên nhìn người.
298. Vạn vật trên thế gian đều có thể dụng được. Chỉ do người có biết dụng vật hay không mà thôi.
299. Động thì sự chơn giác về lúc ta yên ngủ.
Tịnh thì sự chơn giác về lúc ta thiền giác.
300. Đạo Học nó to như không gian, rộng như Vũ Trụ, và nhỏ như hạt sương. Cho nên học hoài cũng không hết.
301. Sức mạnh của người tu là sự thanh tịnh. Càng thanh tịnh thì càng gia tăng sức mạnh.
302. Tu Đạo Lớn, phải có nhẫn nhục lớn, mới thành công lớn.
303. Bụng người chỉ chứa năm ba chén cơm thì đầy, mà sự ham muốn chứa hoài không hết.
304. Tu hoài mà không thức, luyện hoài mà không sáng. Người đó chỉ có đủ phước hửu vi thôi vậy.
305. Không biết thì chê, biết rồi lại chấp. Người đó chỉ biết nói chớ không biết hành động.
306. Có đường lớn mà không đi, có Đạo Lớn mà không tu. Người đó đang bịnh tâm lý rồi vậy.
307. Đi tu mà còn củng cố địa vị của mình thì có thời gian đâu mà tu giải thoát. Nếu còn ôm địa vị là theo đạo hửu vi rồi vậy.
308. Đạo mới có thì kêu to.
Đạo một nửa thì kêu ột ệt.
Đạo được đầy thì yên lặng.
Khi đã được yên lặng thì mới đi vào đại định được.
309. Đi học ở đời là đi học lại của người thành công. Còn đi học ở tâm linh là đi học đại học với Vũ Trụ. Nhờ vậy mà xưa nay các bậc nhân sĩ, vua quan, đạo sĩ, còn phải học tập mãi mãi mà vẫn chưa đủ.
310. Cái biết ở Đời là cái biết trí thức thanh và sắc, là cái học theo trục vật chất, nên càng động loạn cầu kỳ. Còn Đạo Học là khoa học tâm linh:
Động loạn thì Đạo xa
Thanh tịnh thì Đạo gần
Sống yên thì Đạo hiệp
Trung dung thì Đạo chuyển
Càng chuyển thì càng tịnh
Càng giồi thì càng sáng.
Như mặt trời treo giữa chơn tâm, cho dù có học ngàn năm Duy Tâm Khoa Học vẫn chưa được là bao nhiêu khi đứng trước Thượng Đế. Vì vậy người ngộ Đạo lúc nào cũng cho mình là dốt là vậy.
311. Chiếc áo của người tu chưa đủ đại diện Phật. Nếu đã đủ thì không còn sanh tật, và tự nó biết giác ngộ chân bản tánh rồi vậy.
312. Đạo Lớn vốn vô hình.
Phật Lớn vốn vô tướng.
Người có đạo đức lớn không tranh đoạt. Còn tranh đoạt là còn đạo của chúng sanh đang tu bổ.
313. Chỉ học văn tự mà cho là luyện Đạo, thì như người học võ, chỉ học được bài thiệu thuộc lòng. Lúc gặp cọp thì làm sao biết thủ thân, trừ nguy, diệt bạo? Rồi lúc làm tướng, làm sao biết điều binh khiển tướng? Lúc đó là lúc trả lời mình có thật đầy đủ võ công hay không. Vậy không lẽ học bài thiệu mà thành ông Phật?
314. Phật dạy nên bỏ hình tướng nhưng lại ôm. Phật dạy nên giải lòng phàm ngã nhưng lại kết. Nếu vậy thì sao đi cùng đường với Phật cho được.
315. Nước lớn đổ đê.
Bão lớn sụp biên.
Chiến tranh lớn thì tiêu diệt hết vạn vật.
Chỉ có Đạo Lớn mới cứu hết nhân loại.
316. Thiện chưa minh mà lo tu thiện sẽ sanh ác, vì lòng phân biệt chưa dứt.
Thiện mà Đạo được minh thì mới đạt thiện.
Thiện đến lúc thiện ác không còn thì mới là người chí thiện.
317. Ác mà chưa thành đại ác thì nó còn bị nó bao che. Khi nó thành đại ác thì nó mới sợ nó. Vì vạn sự hiện ra trước ánh mặt trời, chỉ có lúc đó nó mới thật sự quy y thí pháp.
318. Trời có đức hiếu sinh nên vạn vật, kẻ dữ người lành, cũng điều hít dưỡng khí mà sống.
Người Đạo thấy người ngả đổ, thất bại mà còn hạ thủ, thì kẻ đó là vô Đạo rồi vậy.
319. Thấy ngả thì đỡ; thấy té thì nâng; thấy chìm thì vớt; thấy thiếu thì bố thí. Lòng không phân thiện ác. Người đó đang Thế Thiên hành Đạo, độ đời cứu người đó vậy.
320. Nếu mình không cho họ có cơ hội thì kẻ thiện trở thành ác, vì chính mình ép họ không có đường đi. Vậy việc ác của kẻ thiện đang làm là mình thọ đủ.
321. Nhân quả tuy không ai thấy, nhưng xưa nay không ai thoát khỏi. Dấu người thì được, chớ dấu mình và dấu Trời thì không bao giờ được. Người có Đạo nên cẩn thận để khỏi chôn mình vào Địa Ngục.
322. Đem tâm mà cầu Đạo thì được chứng Đạo.
Đem thân và nhục dục đi cầu Đạo sẽ bị che lấp.
Đem tình cảm mà đi cầu Đạo, Đạo bị trói buộc.
Chỉ có khi nào lòng mình được thanh thản thì Đạo cũng thanh thản hiệp về.
323. Đi tu thanh thì phải khử trược.
Đi tu tịnh thì phải giải động loạn.
Thấy sao theo vậy.
Thấy gì ôm bậy
Là đoạ Địa Ngục.
324. Cây Hồng Đào, cây Huyền Trúc, cây Dương Liễu, cây Thanh Tòng, là bốn loại cây đại diện cho tánh Đạo của bốn giới Thần, Thánh, Thiên Tiên, và Địa Tiên.
- Cây Đào đại diện cho chư Thần: như ban hoài không dứt.
- Cây Trúc đại diện cho Thánh Nhân: không lòng trống dạ, có bỏ trôi giữa biển đời vẫn không chìm.
- Cây Liễu đại diện cho Địa Tiên: mạnh thì cũng chìu, yếu thì cũng kết. Nhưng luôn lập trí giữa thế Đạo của mình, không vì sợ mạnh mà siêu đổ, không vì vinh nhục mà bạc đãi. Luôn đứng thẳng, chìu người mà không mất tánh Đạo.
- Cây Thanh Tòng, dù cho bốn mùa tám tiết đổi thay, bão bùng mưa gió qua lại, nhưng nó vẫn một lòng trung dung từ độ, và luôn giữ một màu thiên thanh không úa. Đó là Đạo Tiên Thiên, và đạo đức của người quân tử.
- Còn Hoa Sen là đại diện cho Bồ Tát Giới.
325. Đạo Lớn vô tướng.
Đức Lớn vô tư.
Người học Đạo lớn coi theo đó mà làm thì thành chánh quả.
326. Việc lớn làm thành nhỏ, là bỏ qua được thì nên bỏ qua.
Việc nhỏ làm thành không, là quên được thì hãy cho nó quên luôn.
Không mà làm cho có là Bá Đạo.
Có mà không dung thứ cho người là tâm Ma phá Đạo.
327. Công phu luyện Đạo là lấy ba thứ: Linh Tâm, Linh Tánh, và Linh Thức của mình để rèn bằng sự tĩnh tâm. Pháp Luân Thường Chuyển rồi mới Định Thần cho tâm sáng, tánh linh, thần được sung mãn, thì mới mở cửa khiếu linh mà về Thiên Quốc. Chớ không phải tụng kinh gõ mõ. Nếu ngày nào cũng tụng, sẽ hao khí tán thần. Rồi Đạo đâu không thấy mà còn sanh bịnh hoạn và sanh ra kỳ thị.
328. Người tu chưa minh Đạo còn biện giải văn tự, còn bàn chỗ cao thấp. Nếu đã minh rồi thì trí tuệ mở ra, không đủ giờ học Đạo, thì có giờ đâu mà ngồi minh biện.
329. Không ăn thì đói, không uống thì khát. Còn đạo đức không tu bổ thì suốt đời cũng như người chết bị đói khát đó vậy.
330. Xuân sinh, Hạ dưỡng, Thu kết, Đông tàn, đó là luật tiến hoá của Trời Đất. Còn người tu phải biết văn học, tu tịnh, dưỡng Đạo giải thoát.
331. Nhẫn thì bị nhục.
Nhục đè thì nhịn.
Nhịn được thì nhường
Nhường được thì thắng mình.
Khi đã thắng mình được là đạo của bậc quân tử.
(Hết trang 74.)
Rất hay, cảm ơn huynh tỷ đã chia sẽ ạ.
Nam Mô Hoan Hỉ Thiên Thiên Đạo Thái Bình
(Tiếp đầu trang 53.)
238. Tu mà còn ấn chứng, thì còn nhiều biến chứng.
Tu mà hết ấn chứng, thì tự nhiên thanh tịnh.
239. Người tu mà còn đổ lỗi cho kẻ khác là còn thiếu tu.
Người hành Đạo mà còn sợ dư luận còn thiếu hành.
240. Đen lấy trắng làm nền, trắng lấy đen làm sáng. Đó là người biết dùng đến Đạo Trung Dung.
241. Học văn tự, Kinh Dịch, mà còn cầu sự chơn giải. Nếu đã có điển thì điển đã giải văn rồi vậy.
242. Thành cũng chưa vội vui, bại cũng chớ vội buồn. Xưa nay thành bại biết bao, vinh nhục cũng lắm, mà có ai ôm được lúc ra đi.
243. Học kinh không nên chấp lý.
Tu thiền không nên mê điển.
Chấp lý nên sanh phân biệt.
Mê điển nên sanh kỳ thị.
244. Đạo thật là Đạo
Vốn nó là Không
Hư Vô Chi Khí.
245. Tinh thông thì học được sáng suốt.
Đạo thông thì không còn ràng buộc.
246. Dân là sức mạnh của nước. Nước có thể chở thuyền hoặc cũng có thể nhận thuyền.
247. Học Đạo cần thể hiện chơn tâm.
Hành Đạo cần thể hiện hạnh đức.
248. Một lời nói hay, một thiện xạ giỏi, cũng chưa giỏi bằng một người đang luyện Đạo.
249. Điện có đường âm đường dương kết tụ. Đạo có dòng thanh dòng trược kết lại. Lấy pháp mà khử trược lưu thanh thì thế gian sẽ thiên về Đạo Học hết vậy.
250. Thiền gia cầu Tịnh nên Động.
Đạo gia cầu Thiện nên Ác.
Khi nào không còn cầu, mà thực sự tu luyện, mới là người thanh tịnh tu thiện.
251. Lương tâm chí thiện là không còn sợ ác.
Đạo đức chí nhân là không còn bàn luận nhân nghĩa.
Thiện đức chí hiền là không còn khinh chê kẻ dữ nữa.
Diệu pháp chí linh thì không còn hình vi sắc tướng.
Tâm Đạo nhiệt thành là không còn ngại khó khăn.
Độ lượng to lớn là không lòng chiếm giữ.
Đạo đức sâu rộng là không còn phân biệt.
252. Lúc làm con chưa biết quý cha mẹ. Khi làm cha mẹ thì lại thương con. Đó là lúc hồi tâm biết việc hiếu đạo, thì nên hành cho trọn.
253. Văn phải ôn, võ phải luyện, Đạo phải hành. Ba điều này không thể bàn suông mà đạt được.
254. Đạo hiếu nhờ minh tâm.
Đức rộng nhờ độ lượng.
255. Trai học Đạo, trai hiền.
Gái học Đạo, gái thảo.
256. Thi ân không cầu báo.
Học Đạo không luyến tình.
Nhân minh Nhân vô cầu.
Đạo minh Đạo viên giác.
257. Đức rộng như không đức.
Đạo cao như thằng khờ.
Núi cao tụ sương tuyết.
Đạo cao nương gió mây.
258. Minh cái tâm Không.
Kiến cái tánh linh.
Tâm thanh đạt Đạo.
Tánh linh đạt tịnh.
259. Bỏ thực cầu Đạo.
Bỏ tâm cầu Đạo.
Đạo hiệp tâm linh.
Tâm ngộ thần minh.
260. Nhân truy cái hiền.
Đạo truy cái tánh.
Nhân hiền thanh liêm.
Tánh Đạo tinh khiết.
261. Mến nhân thì cầu duyên.
Học Đạo thì cầu Tiên.
Nhân do duyên tự kết.
Đạo nhờ học thành Tiên.
262. Đi tu đừng sợ khổ. Khổ là phương thuốc giải thoát.
263. Nước đục muốn lóng trong. Nước trong sắp làm mưa để cho đục. Vậy nước nào là nước được đục trong?
264. Học Đạo mà còn chỗ để học, hành Đạo mà còn chỗ để hành, là chưa tới chỗ viên giác. Còn tới chỗ viên giác là tự lui về thanh tịnh.
265. Cây đèn để bên dưới mong sáng lên. Cây đèn ở bên trên mong sáng xuống. Chỉ có người ở chính giữa hưởng được trọn vẹn.
266. Bạch Tự Chơn Kinh là kinh không có lời và chữ viết.
Vô Tự Chơn Kinh là kinh không có chữ mà có lời.
Hữu Tự Chơn Kinh là có lời và có chữ.
267. Không lời là Vô Ngôn Chi Giáo.
Không chữ là Vô Danh Chi Bảo.
268. Vô tự là Vô Vi Chi Giáo.
Hửu ngôn là Như Thị Ngã Văn.
269. Minh tâm cần hành Đạo.
Kiến tánh học Như Lai.
270. Phật nhờ pháp mà hoá duyên.
Nhân nhờ hành mà thành Phật.
271. Ngọt nhờ mặn mà dịu.
Mặn nhờ ngọt mà thanh.
272. Đạo vì Nhân từ độ.
Nhân nhờ Đạo tỏ ngộ.
273. Nồi canh thiếu gia vị thì không được ngon. Còn bỏ nhiều gia vị quá thì sanh kích thích. Hãy để bình thản, trung dung.
274. Nhiều ngày luận văn bàn kinh, còn thua một giờ đạt thanh tịnh.
275. Phật Gia lần chuỗi để niệm kinh.
Tiên Gia đánh cờ để luyện Đạo.
Thiền Gia niệm tâm kinh để giải thoát.
Tam Giới tu tập tuy có chỗ khác nhau, nhưng cùng chung một Đại Đạo.
276. Ăn chay mà còn bàn cãi chay mặn, học Đạo còn bàn chỗ hay dở. Như vậy dễ làm tổn thương đến đời sống thiện lành của Đạo.
277. Lớn làm cho nhỏ, nhỏ bỏ thành không, là người thật sự hành độ Chơn Đạo.
278. Người người điều có Ngọc Phật ở trong tâm, có sẵn tấm gương lành ở trong tánh. Chỉ khi nào hồi quang phản chiếu thì tỏ ngộ.
279. Đi tu mà còn ôm lòng phân biệt là còn ôm cái gông trói tâm.
Còn sanh tâm thiện ác thì còn tu ở cõi Địa Ngục.
280. - Cảnh giới Địa Ngục: trược khí, uế khí phủ kín.
- Cảnh Trung Giới: trược khí một nữa, linh khí và không khí lẫn lộn.
- Cảnh Trung Thượng Giới: không khí, linh khí trong sáng. Cảnh trí hai phần ba thanh tịnh nhẹ nhàng.
- Cảnh Thượng Thiên Giới: thanh khí, linh khí đầy ấp, trong ngoài dưới trên hiệp Đạo.
- Cảnh Giới Hư Vô: yên lặng, đại thanh đại tịnh, thông suốt khí linh, huyền hoá vạn loại.
281. Người đạt thanh tịnh không còn ngủ, chỉ có nằm nghỉ. (Gọi là Ngoạ Thiền.)
282. Hoả lực của Đạo gia tăng.
Thanh tịnh tự nhiên hiệp Đạo.
283. Ly tâm cầu học Đạo.
Cải tánh tự diệt danh.
284. Cầm gươm trí tuệ là hành pháp đốn ngộ.
Chặt một đường gươm để thay cũ đổi mới.
Soi tỏ cho đời để hành Đạo tiến đức.
285. Nhân mà hiệp trí tuệ thì hiền.
Đạo khai mở trí tuệ là giác.
286. Con cá lớn không nên vẫy đuôi ở chỗ nước cạn. Người có Đạo Lớn nên hành đức nhẫn lớn.
287. Cơm ăn đỡ đói, nước uống đỡ khát. Điển văn Đạo Học là để giải thoát.
288. Đạo Học là tâm Thông Thiên Học. Nên trực giác, quy tâm, kiến tánh thành Đạo.
289. Chơn lý còn ở chỗ Hửu Vi thì còn bàn với luận. Chơn lý đã hiệp một với Vô Vi thì miễn bàn. Lúc đó chỉ lo hành Đạo thì mới đạt Đạo.
(Hết trang 63.)
(Tiếp theo trang 45.)
201. Đạo tu tại Tâm
Nhân tu tại Thân.
Tiên tu tại Mệnh.
Phật tu tại Tánh.
202. Đức rộng hành độ không có biên giới.
Đạo trọng quỷ Thần còn kính nể kia mà.
203. Mượn thân tu Đạo để thành nhân.
Mượn nhân tu Đạo để thành Tiên.
Nhờ mượn phương tiện mà tu đạt Tiên Nhân.
204. Lấy đức mà trị nhân thì nhân an.
Lấy Đạo mà trị nhân thì văn minh.
Nhân có an thì văn minh mới khôi phục.
205. Đời sợ khổ luôn cầu an.
Đạo học khổ luôn hành độ.
206. Nhận khổ làm vui là đạo đức của hàng Bồ Tát. Vì vậy các Ngài luôn cứu khổ ban vui mà không lời than thân trách phận.
207. Đạo và hạnh phải đi chung với nhau, nếu tách rời là vô Đạo vậy.
208. Tiếng hát chim muông làm vui được lòng người đạo đức tiêu giao giữa cảnh núi rừng. Một thời luận kinh thuyết pháp sẽ mọc được giống Bồ Đề chơn giải.
209. Nước ở trên nguồn thì cao. Nước ở dưới biển thì thấp. Vậy nước ở trên mây đang làm mưa kia nó cao hay thấp vậy?
210. Nước mượn gió để làm sức.
Người rèn Đạo để làm phước.
211. Trăng treo giữa Trời còn có lúc tròn lúc khuyết. Thì sự dạy Đạo cho người đừng ngại chỗ thành bại, thạnh suy.
212. 'Mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên.' Nếu mình không làm thì đâu biết thắng hay bại.
213. Nước có lúc lớn lúc ròng, thì nhân tâm trong đời cũng vậy.
214. Quạ chê Công màu sắc, Công chê Quạ đen đúa, nên làm cho thế giới phân biệt. Chỉ có Hạt Trắng chẳng chê ai; kết đàn ăn xa, ở cao nên không vướng vào vòng tranh chấp; tự do biển Bắc trời Nam an nhiên tự tại.
215. Học Đạo trước phải cải tánh cầu tâm. Cầu được tâm thì lo kiến tánh thì đạo đức mới tròn.
216. Đi tu không bỏ vật chất hình thức, chỉ cần đổi mới tâm linh mình trước. Khi ngộ tâm rồi mới phân định thì hay hơn.
217. Thầy kêu đệ tử buông bỏ hết, còn thầy thì lại ôm hết. Đệ tử bỏ hết được giải thoát, thầy ôm mãi nên được đoạ lạc.
218. Tâm chưa hoà bình tức chưa hoà, cảnh trí Thượng Giới chưa về là chưa thượng, thì làm gì có Hoà Thượng.
219. Độ lượng chưa có tiểu thì làm sao có đại, nhân nghĩa chưa có phục hưng thì chưa có đức, thì làm sao gọi là Đại Đức.
220. Nhân thân chưa lọc, pháp lý chưa thông, mà luận Đạo Trời Đất, khác nào như ếch nằm đáy giếng coi trời bằng cái vung.
221. Cha mẹ sanh ra mà chưa hiểu, bạn đạo tu đồng môn mà chưa kính, thì Trời Đất hết Đạo cho người đó tu rồi vậy.
222. Cá tu mong được hoá Long.
Rồng tu mong thoát xác thành Minh Châu.
223. Người tu mong được thành Phật
Phật tu mong được giải thoát.
224. Người tu mong được về Trời
Phật tu mong được độ người.
225. Mới tu cầu giải.
Tu lâu cầu thoát.
Mới tu nên giữ lòng phân biệt.
Tu lâu nên giải tâm ích kỷ tổn Đạo.
Có vậy mới tự nhiên được Đạo Giải Thoát.
226. Mới học thì mê văn tự.
Tu lâu thì chê Kinh Luận.
Lòng còn mê còn tối.
Tâm còn chê là còn động loạn.
227. Thanh tâm thì sống an nhiên.
Tịnh tánh thì luôn yên phận.
228. Thiền đến giác ngộ thì không còn bàn luận.
Chỉ lo dọn cái tâm bên trong mới là chánh.
Tích đức tu thêm cho thành chánh quả.
229. Tiên tu Huyệt - Phật tu Điền.
Nhân tu Tâm - Đạo tu Tánh.
230. Người chơn tu không tranh đoạt sở thích của kẻ khác; không luyến tình, binh người, tổn Đạo. Nếu không được như vậy thì còn trong chúng - sanh - tánh.
231. Đạt Đạo chơn tu chẳng luyến tình
Để cho tâm tánh thoát vô minh
Thất Tình còn giữ mồ hoang lạnh
Suốt kiếp đi tu vẫn chúng sanh.
232. Tranh là tổn Đạo.
Chiếm giữ là Bá Đạo.
Đạo vô tranh đoạt thanh.
Đạo buông bỏ giải thoát.
233. Học cái người chưa học.
Tu cái người chưa tu.
Đó là hàng trí tuệ, viên giác đại căn.
234. Người cầu Đạo đổi tất cả để đắc Pháp.
Người Bá Đạo ôm hết thảy để sống chết.
235. Người thật chí thiện không còn chấp ác.
Nhân nghĩa cùng tột vốn nó không lời.
Luân lý thông suốt không gây chiến tranh.
236. Đạo Học còn bàn, mới vào sơ học.
Đạo Học miễn bàn đi vào đại học.
Đạo đức thanh nhã được vào trung học.
237. Nhìn đó biết đây, nhìn Nhân biết Đạo, là truy chỗ nầy đó vậy.
(Hết trang 52.)
(Tiếp theo trang 35.)
154. Uống rượu say không sợ bằng một vị lãnh tụ say trong chiến đấu.
155. Tình yêu là sức mạnh của thiêng liêng. Hãy để nó an vị bình thản như cái chung đựng nước, vì lắc nó tràn, nghiêng nó đổ. Hãy luôn giữ cho nó ngay thẳng.
156. Sau cơn giông bão sẽ trả lại sự yên tĩnh dài hạn.
157. Phước huệ song tu là cái nền lớn của nhà đạo đức. Đã đứng trên nó thì không sợ ngã, và càng củng cố lại càng bền vững.
158. Pháp môn khẩu thuyết tâm truyền xưa nay là món quà vô giá của Phật Pháp. Khi đã thọ được thì hãy tự cố gắng. Người đi trước đã thành công còn mình cũng đừng nên chờ đợi.
159. Cây phước đức chỉ nở hoa trong đời có một lần. Mình hãy nên chăm sóc và bón phân nó cho cẩn thận để khỏi tuyệt giống tốt.
160. Khẩu đức là hai con đường thiện và ác. Bậc đại trượng phu xưa nay chỉ nói có một lời mà bốn ngựa còn theo chưa kịp. Nếu mình không làm bậc đại trượng phu thì ai sẽ làm đây?
161.Lòng trung tín là tấm gương lớn. Để xa nhìn thì thanh tao bình thản. Nếu đem soi càng gần càng thấy khó coi. Đạo nếu ở trong tâm mình thật, thì không ai đánh cắp được.
162. Đức tin càng rộng, sức mạnh càng lớn. Người có đủ đức tin thì sợ gì không đủ sức mạnh.
163. Tu luyện hằng ngày là đang trồng vườn hoa phước đức. Đã là đức thì mặc sức mà hưởng.
164. Tâm an thì trí mới định, huệ mới phát.
Đã đi đúng đường sao còn ngần ngại.
165. Cây khô mà được đâm chồi là phúc đến hoạ tiêu. Mà còn được trổ hoa là mình có tích đức. Nên cố gắng thì Trời sẽ độ.
166. Đức tin là nền tảng lớn của người quân tử, cho dù đem vàng mà đổi cũng không lay chuyển. Cho nên, sống như Tướng, tử như Thần, mới nắm giữ được đạo đức lớn.
167. Độ lượng là cây thước đo lường đạo đức. Người có được nó, tự biết trau giồi thì đạt Đạo Lớn.
168. Kinh Phật mà còn bàn luận, đạo đức mà còn phổ thông, hình như có chỗ chưa đủ. Nếu đã đủ thì đã đến chỗ miễn bàn rồi vậy.
169. Thanh là người quy hồi chơn thức. Tịnh là người đạt được sự an lạc của nội tâm, nên thích sống vô vi yên lặng. Còn người bàn cãi đạo đức là hình như họ mới vào học Đạo.
170. Vô tranh thắng được tranh thì giúp mình tu tịnh.
Hửu tranh thắng được người mà thua với chính mình, nên được hàng đạo đức gọi là bậc hạ sĩ.
171. Đời cũng ôm, Đạo cũng giữ, vô tình mình là giặc của hai giới rồi vậy.
172. Đi tu là phải buông. Học Đạo phải bớt. Bớt cho tới không còn chỗ để bớt thì đắc pháp.
173. Văn hay bổ trí.
Đạo hay bổ đức.
Lời hay bổ ký ức.
Ký ức mà được bổ dưỡng thì không sợ khổ.
174. Nước trong nhờ lọc.
Đạo thanh nhờ tịnh.
Tu nhân mà chưa lọc, Đạo gia mà chưa tịnh, thì trở thành 'mãi võ Sơn Đông' rồi vậy.
175. Oan gia nên giải không nên kết.
Đạo gia nên kết không nên oán.
Hành Đạo mà ố Đạo là vô Đạo.
176. Lúc nghèo biết chia. Lúc nguy biết phò trợ. Đó là đạo đức của người trung nghĩa. Mình đã có ngọc quý ở trong nhà thì không sợ đói.
177. Rượu uống lúc chia tay, ăn chay lúc luyện Đạo, là hai điều phải làm cho đúng lúc. Rượu say vì bạn là tỏ lòng quý kính, không nói thành câu mà như chia sẻ hết Thiên Chân. Thì dù xa ngàn dậm, dù vắng bao ngày cũng không quên được người tri kỷ.
178. Tình yêu của Thần là đức hạnh hy sinh, trung cang, nhân nghĩa, phò Đạo một lòng, tận trung báo quốc. Đó là tình yêu bất tử.
179. Tình yêu của Nhân Hiền là sự liêm chánh, hạnh tốt, tâm từ, tu thân hành Đạo, phò cơ, trợ phương tiện cho người minh triết.
180. Tình yêu của nhân loại là, giúp đỡ lẫn nhau, trợ duyên học Đạo, bảo quốc tề gia, sống vui hạnh đức.
181. Trời không gì giận một người mà diệt cả thiên hạ.
Người có Đạo không gì một sự thiếu sót mà mình làm ố Cơ Đạo.
182. Nước lớn phải dùng đức để yên Đạo, dùng nhân để an dân, dùng nhân nghĩa mới thạnh trị lâu dài.
183. Dân tu thì nhân được trong lành. Dân yên thì Thái Bình được khôi phục.
Chỉ có dân ngu là tác hại vô cùng.
184. Hiền nhân dụng Đạo phò Vua nên được trung dũng.
Chí Nhân đem ra phò Đạo thì gom được thiên hạ về.
Nhân Tâm dụng Đạo của người quân tử đó vậy.
185. Dụng nhân như dụng mộc thì còn có chỗ chưa dùng.
Còn dùng nhân như dùng thuỷ là dùng tới cái huyền biến của pháp Trời rồi vậy.
186. Tiếng sáo kêu thanh, tiếng trống kêu vang, chỉ kêu khi có người sử dụng. Còn loại trống Trời và sáo Trời thì kêu hoài không dứt. Hình như có sự xuôi thuận mà thành ra các bản hoà tấu thiên nhiên, hài hoà thánh thoát.
187. Đêm thanh nhờ trăng sáng.
Ngày thanh nhờ trời trong.
188. Tiếng hát giữa không trung hài hoà êm dịu. Bản hoà tấu giữa Hư Không nhớ mãi không nguôi. Đó có phải tiếng hát của Thánh ca Đại Hồn kêu gọi, mời đón Thiên Chơn trở lại nguồn xưa?
189. Mắt đời chỉ nhìn được thị vật nên gọi nhục nhãn.
Mắt Thánh nhìn xuyên núi non mây bạc nên gọi Thiên Nhãn.
Còn Mắt Trời có khắp trong thiên hạ mà lại không tên.
190. Thánh Ngôn, Tiên Ngôn, Phật Ngôn, vẫn còn hạn hẹp. Khi nào đi đến thế giới Vô Ngôn thì không còn hạn hẹp. Thế giới ấy Vô Thinh Chi Giáo.
191. Duy Tâm theo Đạo
Duy vật theo Trục.
192. Nhân tâm tu Phật thì hiền. Nếu tu Phật mà chưa hiền thì chưa đi đúng đường của Phật dạy.
193. Đạo Gia tu theo mệnh của Trời nên được Trời độ.
Thánh Nhân lập đức ở trong mọi người nên được khôi phục lại lòng nhân của thiên hạ thờ Trời.
194. Thiên Lý còn phải theo thời phổ hoá. Cho nên Thánh Nhân cảm ứng mà hành Đạo, và thường theo Thiên Lý ứng tâm để cho hiệp với lòng Trời và các hàng Đạo Đức. Nhờ vậy mà lòng nhân theo về không ngớt.
195. Đạo Gia gặp được Hiền Nhân thì bàn.
Thánh Nhân gặp được Sĩ Nhân thì triết.
Thần Nhân gặp người trung nghĩa thì phò.
Có vậy mới đúng Đạo Trời.
196. Đờn giỏi có khi cũng bị đứt dây. Hát hay có khi cũng bị tắt tiếng. Đạo Lý, ở chỗ quân bình nên áp dụng.
197. Bậc chí sĩ, thiên tài, có lúc cũng phải bó tay trước cảnh thiên hôn địa ám kia mà. Huống chi người chỉ biết vài ba chiêu võ đạo.
198. Ách nước, nạn dân là do người quân tử không trọng Đạo, và do nhân tâm không tích đức.
199. Lúc nguy cơ thì cầu Trời Phật gia hộ. Lúc đau khổ thì nhờ Bồ Tát diệt tai, trừ nạn. Vậy mà lúc thành công không mấy kẻ biết lo tu tâm dưỡng tánh để đền ơn gia hộ.
200. Tu non, tu thị, tu sơn, mà chưa tu tâm, thì còn thiếu Chơn Chánh Đạo trong đó vậy.
(Hết trang 44.)
(Tiếp theo trang 31.)
133. Mình không thích sự bất công, thì không nên đem sự bất công cho người khác.
134. Đi tu đừng chờ ngày đắc Đạo. Cứ lo tu hành thì Đạo mới đắc.
135. Giúp người đừng sợ mất của, kẻ khác sẽ giúp lại mình nhiều hơn vậy.
136. Đừng buộc tội cho người mình không thích, mà hãy giết chết cái lòng vị kỷ của mình trước đã.
137. Đã tu thân thì không sợ nghèo. Như người làm vườn luôn săn sóc hoa màu thì sớm gặt quả.
138. Bậc hiền sĩ mà có độ lượng thì sợ gì mà không có ruộng phước để canh tác.
139. Hơn người không vội mừng.
Thua người không vội buồn.
Đáng buồn nhất là thua mình.
140. Dòng sông ít khi chảy ngược, nếu có chẳng qua là định mệnh.
141.Vạn vật ứng theo thời gian mà thay đổi. Nhưng người có lòng thành tín nó sẽ trở thành bất diệt.
142. Bố thí là sự giúp đỡ vô bờ bến. Hãy bố thí luôn cái lòng vị kỷ của mình thì đắc Đạo.
143. Yêu mà còn muốn được yêu là tình yêu còn hạn hẹp. Còn tình yêu mà biết hy sinh là tình yêu cao đẹp vô cùng.
144. Sự yên lặng rất quý báu với bậc chơn sư, nhưng rất chán đối với tuổi trẻ.
145. Thanh tịnh là sức mạnh của nội tâm.
Người chơn tu dứt động tìm tịnh là về với nội tâm của mình vậy.
146. Tha người là biết bố thí cho tinh thần.
Thương người là sử dụng từ bi.
Độ người là sử dụng lòng đại lượng.
147. Lòng nhân từ mà không dùng đúng chỗ sẽ bị lợi dụng; còn dùng đúng chỗ nó trở thành sức mạnh nhân nghĩa.
148. Mùa Đông không thể thổi được ngọn gió Xuân, cho nên có ngồi trông cũng vô ích.
149. Chơn lý là định luật hai chiều, không tiến thì lùi, chớ nó không đứng ở một chỗ.
150. Lòng thành tín là sức mạnh vô địch. Bậc quân tử thành nhân nhớ giữ vững nó.
151. Cái đầu trọc chưa đủ đức để làm một chơn tu. Khi nào lương tâm cạo sạch thì mới đủ đức độ.
152. Chiếc áo không đủ dũng để trở thành một thiền sư. Chỉ có khi nào linh hồn mặc được chiếc áo của lương tri lành mạnh thì mới đủ.
153. Tình bằng hửu như giấy và viết. Mình viết ra cái gì thì mình sẽ học lại những cái đó.
(Hết trang 34.)
(Tiếp đầu trang 28.)
118. Nếu gặp kẻ thù mà ra tay giết họ, vậy giết bao giờ cho hết? Tại sao không giết cái lòng phân biệt của chính mình, vì nó là kẻ thù đáng được giết trước.
119. Đừng ngồi chờ sự vừa ý đến với mình hằng ngày, như vậy sẽ tạo cho mình trở thành người cô độc nhất trần gian.
120. Việc nhân nghĩa nên làm; sai thì biết tự sửa; hay thì biết học theo; dở thì tự bỏ. Làm được như vậy, đó là người đã trưởng thành rồi vậy.
121. Chua không than; cay không chê; mặn không trách; ngọt không giữ; nồng không bắt. Đó là người chiến thắng được lòng của mình rồi vậy.
122. Đời là biển khổ mênh mông, đừng sợ chìm thì sẽ được giải thoát.
123. Vợ chồng càng muốn được nhiều hạnh phúc thì lại tạo ra nhiều ngăn cách. Hãy tự giảm bớt sự ham muốn thì hạnh phúc sẽ được hồi sinh.
124. Đừng chờ người khác đem hạnh phúc lại cho mình, nếu mình không cố giữ nó. Hãy tìm hạnh phúc trong chính mình, khi có mặc sức bố thí.
125. Người đi tu là coi nhẹ lòng phân biệt mới thoát được chúng-sinh-tâm. Nếu lòng phân biệt còn ở trong mình, thì mình với chúng sinh là một vậy.
126. Trả một mối thù là tự kết dây oan trái, càng trói càng vướng bận. Tha được kẻ thù thì mới chiến thắng được lòng phàm ngã của mình, oan trái tự hoá giải.
127. Sự thất bại lớn nhất là hành động thiếu đức tin ở chính mình.
128. Người đời ai thấy khổ cũng sợ, nên cầu Bồ Tát để Bồ Tát làm thay cho. Vậy tại sao lúc sung sướng họ không chia cùng Bồ Tát?
129. Cứu khổ ban vui là chơn lý của người tu Đạo. Tu mà còn ngại khổ thì Đạo đã lìa tâm.
130. Lời nói, pháp thí, có khi là phương tiện cao quý cho người hành Đạo.
131.Học tập không đòi hỏi tuổi tác. Người hiếu học nếu không vào trường được, vậy sao không tự học với chính mình?
132. Nếu Bồ Tát thấy khổ mà từ chối, thì ai là người cứu khổ ban vui?
(Hết trang 30.)
(Tiếp theo trang 18.)
71. Thành trì nhỏ mà kiên cố lớn thì hao tổn.
Thành trì lớn mà kiên cố nhỏ thì bị tổn thương.
72. Người quân tử đi đâu cũng trọng người, giữ mình. Vì trọng người thì người kính, giữ mình nên được yên thân.
73. Người nhân nghĩa vì Đạo, có lúc quên đến chỗ không có mình trong thiên hạ, nhưng lại luôn hiện hửu trong lòng thiên hạ, cái đó mới lâu bền.
74. Làm mười việc nghĩa chưa được một người khen. Làm một việc sơ ý có cả ngàn người chê. Nếu họ không chê thì đâu còn việc cho người nhân nghĩa làm.
75. Tu miệng thì nhiều, tu tâm thì ít. Ít đến nỗi không thấy hình tướng của nó. Vậy mà đi đến chỗ nào họ cũng nói họ là người tu.
76. Cha Trời hỏi Mẹ Đất: "Tại sao Bà lại ngồi im mãi vậy?"
Mẹ Đất trả lời: "Sợ tụi nó bỏ bom nguyên tử nên tôi đâu dám nói."
77. Mẹ Đất hỏi Cha Trời: "Ông đi đâu mà đi mãi không nghỉ vậy?"
Cha Trời trả lời: "Tôi đi dạy cho tụi nó làm việc nhân nghĩa mỗi ngày. Vậy mà còn nhiều đứa bất nghĩa vẫn chưa dạy được đó vậy."
78. Sự sáng suốt: thường về lúc thanh tĩnh; thường xa lúc động loạn; thường mất lúc dục vọng nổi lên.
79. Nơi quan binh là chỗ anh dũng nhất, mà lại là chỗ giết nhau nhiều nhất. Cho nên người nhân nghĩa dụng binh, cũng nên tính kỹ, không nên tuỳ ý mà hại đến trăm họ.
80. Cuộc chiến thắng nào cũng huy hoàng. Cuộc chiến bại nào cũng bị điêu tàn. Vậy kẻ bị đưa vào bải tha ma kia có muốn được thắng hay thua mà im lìm không nói vậy?
81.Sức mạnh của võ phu chỉ thắng được một người, trăm người, hoặc ngàn người chứ không thắng được lòng thiên hạ. Người đạo đức sức mạnh tuy không hơn một đứa nhỏ, mà thắng được lòng thiên hạ đó vậy.
82. Đế quốc thường dùng binh lực để chiếm đoạt. Sau đó phải cũng cố mấy đời người mới khôi phục được lòng nhân.
83. Bá quốc dùng mưu trí để tước đoạt. Khi tước đoạt được thì tạo ra sự ngờ vực lớn. Còn lòng người, ai cũng đề phòng mà tạo thành một thế lực tiêu cực nên dễ bị xụp đổ.
84. Cường quốc dùng khoa học kỹ thuật để chiếm giữ nên, sanh ra thất nghiệp, sanh ra tệ đoan xã hội, sanh ra khủng hoảng kinh tế, sanh ra chiến tranh giai cấp chủng tộc, nên tự diệt.
85. Vương quốc dùng nhân nghĩa để thu phục, nên trọng kẻ sĩ, mến hiền tài, kết giao lân bang, quy tựu tuấn kiệt. Vì vậy kẻ trí sĩ xuôi thuận theo, người hiền sĩ lo cũng cố sự tuấn kiệt để lập công. Đó gọi là dùng nhân nghĩa để trị.
86. Hoàng quốc trên thuận mệnh Trời, lấy Đạo phổ hoá, cho nên Phật Tiên Thánh Thần đồng phò, ẩn sĩ ở núi non cũng ra giúp, nhân sĩ bốn phương tầm về, đạo nhân bốn biển tiếp rước, lòng người đặt hết niềm tin, làng xã tự an thạnh trị, tà khí từ đó tránh xa, luân lý từ đó khôi phục, đạo đức từ đó phục hồi. Trên thuận mệnh Trời, dưới được lòng dân, nên thành Thánh Đạo.
87. Lúc nóng giận là lúc yếu nhất.
Lúc hối hận là lúc sáng nhất.
88. Đừng sợ người ta phụ bạc mình, hãy tự mình cố gắng làm lại từ đầu để khôi phục lại tình cảm ấy.
89. Nếu đạo đức không phát ra từ trong lòng mình, cho dù tu ngàn năm vẫn chưa thấy Phật.
90. Người thành công là nhờ học được kinh nghiệm từ những sự thất bại của chính mình.
91. Có một thứ tình yêu không bao giờ già yếu, đó là tình yêu cứu khổ ban vui của Bồ Tát.
92. Yêu mà không chiếm đoạt, thương mà không ràng buộc. Tình yêu đó mới bền vững.
93. Khi chơn tâm đã phát quang, càng đậy nó càng sáng, sáng đến chỗ biết nghỉ chớ không còn mê ngủ.
94. Tu là tĩnh. Tĩnh cho tới chỗ thanh tịnh thì trí tuệ mới phát, huệ căn mới hiệp, đạo đức mới về.
95. Ngủ mà thấy an nhiên là Thần Thức và Chơn Thức hiệp Đạo.
Ngủ mà thấy động loạn là lương tâm chưa an Chơn Thần còn bị ám.
96. Ăn chay là để học độ lượng, từ bi, thương người, trọng vật, để trở về bình đẳng tánh.
Còn chấp ăn chay thì trâu, bò, nai, dê, đã thành Đạo trước mình rồi vậy.
97. Người chơn tu cao đẹp là nhờ biết độ lượng hy sinh.
Người con gái đẹp là nhờ có chút ít nhan sắc.
Nhan sắc sẽ tàn phai theo thời gian, còn độ lượng hy sinh sẽ cao đẹp mãi mãi.
98. Ăn trái nhớ kẻ trồng cây, uống nước nhớ nguồn. Đó là đức của người quân tử.
99. Lời thiện đức có lúc tỉnh được người mê loạn.
Một bài hát êm tai cũng giải được cơn mệt nhọc.
100. Có phước mà không biết an dưỡng. Có thiện duyên mà không chịu kết thân học tập. Ấy là người còn thiếu tu từ kiếp trước.
101. Đường dài có đi thì mới rút ngắn lại được. Còn không chịu đi thì làm sao tới.
102. Núi cao, sợ khó không lên thì làm sao tới đỉnh để thấy được Trời cao Đất rộng.
103. Muốn biết nhiều thì phải siêng năng cần học.
Muốn có độ lượng thì phải nhẫn nhục lớn.
104. Lý trí mà thường luyện tập hằng ngày sẽ trở thành cây gươm trí tuệ để cắt đức lòng phàm ngã của chính mình.
105. Tình yêu mà không thương quý nó sẽ thành nô lệ của dục vọng; còn đáp lại đầy đủ thì nó trở thành chơn thiện mỹ, hạnh phúc.
106. Bữa cơm sang trọng, ăn hoài cũng ngán.
Chơn lý văn chương không nên để cho đầy, vì đầy ắt sẽ tràn.
107. Tình cảm lắm lúc cần phải hâm nóng lại, vì để lâu sợ bị nguội lạnh vô vị.
108. Cây hoa khi nó toả ra hương vị, bản thân nó lại không biết trước.
109. Có một loại hoa không bao giờ héo, đó là hoa đức hạnh.
110. Nếu cặp vợ chồng nào cũng biết quý thương nhau như thuở ban đầu, kỉnh nhau như khi mới gặp gở, thì không bao giờ có sự đổ vỡ.
111. Tình yêu mà không biết chán đó là tình yêu của cõi Hư Vô thanh tịnh. Vì vậy ai cũng thích sống trên cõi Niết Bàn an lạc.
112. Hạnh phúc đến khi nào Thiên Chân bắt đầu khôi phục. Còn chưa hồi phục Thiên Chân, cho dù nó có đến cũng gọi là hạnh phúc tạm.
113. Vợ chồng không phải là nghiệp chướng, mà là thầy, là vị minh sư, đang điêu luyện mình để thành-nhân-chi-mỹ đó vậy.
114. Người đi tu chớ nên bỏ phương tiện vật chất, vì thiếu nó người tu sẽ gặp khó khăn. Cái đáng bỏ là lòng phàm tục của bản thân.
115. Vợ con là nhân đạo của nhiều đời kết tụ lại thành duyên nghiệp của kiếp nầy. Không lẽ lìa bỏ nó trong vài ba năm mà giải được nghiệp của ngàn kiếp trước?
116. Người tu nên ổn định lại gia đạo của mình và độ cho vợ con cùng tu, vì họ vẫn là chúng sanh cần mình độ vậy.
117. Người chơn tu coi thường vật chất, nhưng cũng cần phải có để làm phương tiện để độ tha.
(Hết trang 27.)
(Tiếp theo trang 11.)
40. Tình yêu của Trời lớn rộng mà lặng lẽ vô vi. Cho hoài không hết, chứa mãi không đầy. Sáng thì như mặt nhựt mọc lên thiên hạ tự thạnh, chiều lại hạ xuống cho thiên hạ tự tịnh, mà vẫn không nói một lời trong tình yêu Vũ Trụ.
41. Tình yêu của Tiên là tình yêu của Ngọc Nữ, Tiên Đồng. Tu thân hành Đạo là tình yêu của Hồn Vía siêu thoát thế gian.
42. Tình yêu của Thánh là tình yêu biết hy sinh sự cô động của mình mà mở rộng nó ra trở thành một tình yêu minh triết. Càng yêu nhân loại càng hưởng cảnh Thái Bình dài hạn.
43. Trên đời này cái gì nếm nhiều lần thì cũng ngán. Có một thứ nếm hoài không ngán, học hoài không hết, đó là Đạo Tâm.
44. Sống chung với nhau là cần sự chăm sóc. Ở đời với nhau cần sự quý kính. Có vậy thì mới khỏi bị thiệt thòi.
45. Tu hành không phải thuộc hết kinh, hành hết lý, mà đến được. Cần phải có sự vượt qua Tam Đồ Khổ mới đắc pháp.
46. Luyện Đạo mà không thức tâm, không có minh sư, không có phương tiện, thì không bao giờ viên mãn. Vì làm có đúng đâu mà đắc pháp.
47. Người tu mà còn sợ khổ, thì cũng như cây kiểng để trước nhà cho đẹp mắt. Vì còn lòng phân biệt là còn chứa quá nhiều nghiệp chướng. Họ là loại hàng rào kẻm gai của Đạo, tuy bén và cứng rắn, nhưng không tránh khỏi mục sét.
48. Vật để lâu không lau chùi thì bị bụi che phủ. Bạn bè quen thân không thăm hỏi thì trở nên nguội lạnh.
49. Vợ chồng mà không săn sóc lẫn nhau sẽ trở thành người bạn bất nghĩa.
50. Âm Dương là hai khí tương sanh mà cũng tương khắc. Vợ chồng phải biết phò trợ cho nhau thì mới sống đời được.
51. Tình yêu là một sức mạnh, vượt núi băng sông, qua rừng vượt luỷ, để được nó. Nhưng tệ hại hơn đó là người không biết cẩn thận giữ nó.
52. Luật pháp đơn giản, thì con người văn minh.
Tinh thần khôi phục thì hoà bình được lập lại.
Luật pháp quá hà khắc, thì sanh ra mất an ninh trật tự.
53. Tiếng gọi Chơn Lý ở trong lòng người. Nên người càng quay vào bên trong, thì được sống chung với nó.
54. Tiếng gọi của tình yêu nó ở trong trái tim của con người. Càng đến gần thì càng bị nó mê muội.
55. Sự cám dỗ là ở bên ngoài của con người. Càng đi theo Ngũ Uẩn thì càng bị nó cám dỗ.
56. Bốn mươi tuổi mới tỏ đường đời. Bốn mươi hai tuổi mới thông suốt Đạo pháp. Càng tu sửa thì càng thấy mình ngu.
57. Khi chưa tỏ ngộ thì thầy đưa.
Khi tỏ ngộ thì tự độ.
Khi đã tự độ được thì đi độ tha.
58. Lúc còn bé theo Cha Mẹ.
Lớn lên theo Thầy.
Trưởng thành theo bạn.
Thành nhân theo mình.
Khi già yếu theo Trời Đất Ông Bà.
59. Dạy con:
Đừng nên ép, ép tắc phản.
Đánh tức lìa.
Doạ tức nản.
Thanh minh tức đen tối.
Ràng buộc tức chối bỏ.
60. Dạy thì phải dỗ.
Giáo thì phải dụ.
Lỗi thì phải luyện.
Được thì phải khen.
Thua thì phải an ủi.
Có an ủi mới có đủ đạo đức để dạy con.
61. Khi con còn nhỏ thì nâng niu.
Lớn thì chìu chuộng.
Trưởng thì huấn giải.
Thành niên thì tri kỷ.
Có làm được như vậy thì mới đúng Đạo Trời.
62. Tình yêu của tuổi trẻ là một thứ trái đắng: không ăn thì thèm, nuốt vô thì đắng, nhả ra thì cay. Vậy mà không nếm, không học, thì không được.
63. Tình yêu của tuổi vào đời là tình yêu lựa chọn, nên nó không còn tinh khiết.
64. Tình yêu của kẻ trưởng thành là tình yêu bị chiếm giữ, nên nó vô mùi vị.
65. Khi lòng mình đã mất hạnh phúc, thì thế gian khó mà bù đắp lại được. Một khi khôi phục hạnh phúc lại được ở trong mình, thì ở đâu cũng có hạnh phúc.
66. Dòng đời là thuận chiều. Dòng Đạo là nghịch chiều. Đi tu mà sợ nghịch dòng đời là đã đi sai dòng Đạo.
67. Mình học cho người kế tiếp được học. Mình làm cho người kế tiếp được làm. Người chân tu không nên đoạn tuyệt nhân duyên của người kế tiếp.
68. Người không tu thì để cho kẻ khác được tu. Người không hành thì để cho kẻ khác được hành. Không nên đoạn tuyệt nhân duyên của họ mà phạm luật Trời.
69. Cái tâm mình là một con khỉ có phép thuật. Hãy kèm nó trong mỗi giờ cho đến khi nó quy y thuần phát. Khi đã thuần, nó là bạn cùng đường của mình vậy.
70. Cái tánh là một con ngựa cứ chạy tới mà không chịu lùi lại. Mình nên cột ráp yên cho kỹ càng. Khi nào rảnh rỗi nên đi với nó. Rồi từ từ nó sẽ thuần phục mình, thì sai đâu nó đi đó.
(Hết trang 17.)