(Bắt đầu trang 1.)
Lời Tựa
Những đoạn văn ngắn gọn minh triết và thông suốt trong cuốn Tự Kỷ Giáo Pháp là đề ra những công thức đốn văn, mở Đạo một cách thuần hoá pháp môn thanh tịnh.
Mở một bài kinh văn
Giác ngộ một chơn tánh.
Vũ Trụ Hư Vô lấy khí hoá vận hành để tiến Dương bổ Âm, sanh dưỡng con người, thú cầm, và vạn vật.
Nhìn lại các kỳ hoa dị thảo sống giữa gió sương, nhưng vẫn khoe mình đua nở, để dâng cho đời một mùi hương thơm thanh nhẹ.
Đạo kết lý để mở mang,
Khí kết tịnh để nuôi dưỡng.
Trời Đất bao la nhưng soi thấu lòng người.
Đạo Học tuy vô vi nhưng nhờ văn chương để tỏ sáng.
Mỗi bài văn ngắn trong đây là những loại hoa nho nhỏ đang đua nhau nở rộ giữa vườn Xá Huệ Quốc của những tâm hồn đạt Đạo. Những lời văn ngôn nó sẽ là ngọn gió Xuân sưởi ấm tình người, cho những ai đi vào trong một biển yêu của Thượng Đế.
Xuân về nhìn hoa Trời,
Đạo về nhìn hoa tâm.
Tình Trời hiện hửu trong khắp mọi nơi. Tình người đại diện cho Ngài, khai sáng khắp cả Vũ Trụ và con người, như cha mẹ và con sống chung trong một gia đình vô vi cao cả. Chỉ có số người quên đi khối tình của Vũ Trụ Đại Đồng mới thấy mình cô đơn vô vị.
Nếu bạn là một người tu thân tham thiền nhập định, bạn sẽ đón nhận được tình Trời yêu thương vô cùng tận đang hiện diện trong một con người hiền tu minh giác. Con người càng đi sâu vào trong nội thức thì càng hưởng trọn vẹn nguồn hạnh phúc thiêng liêng của tình Trời.
Hạnh phúc vô tư sống trong mình
Vô hình vô tướng sáng quang minh
Tình yêu tôi hiệp tình Hoàn Vũ
Cầm đuốc từ quang độ nhân sinh.
Ngắm lại vườn hoa của Thái Bình
Tình Trời cao thượng đắc Chơn Linh
Hoa sen hạnh đức luôn sống mãi
Mãi sống trong lòng của chúng sinh.
Kính Bái,
Đức Thầy Vô Danh Thị.
Chơn Đạo Vô Hình.
Chơn Phật Vô Tướng.
Chơn Nhơn Vô Danh.
Chơn Tu Vô Tranh.
TỰ KỶ GIÁO PHÁP
1. Lập Thành Văn Tự 9 Khí của Đạo
Văn tự lập thành bái bản.
Học hành để trao giồi đức hạnh.
Xem xét cho tột cùng của chơn lý.
Ngẫm nghĩ cho ra chỗ hiệp thân.
Chăm chỉ để luyện tập thành nhân.
Ca ngợi sự quang minh của Đạo.
Phi tưởng cho tới chỗ vô cùng.
Bao la rộng lớn không còn diễn tả.
Vô tận đến chỗ miễn bàn mà lại vào thời kỳ sơ khai kế tiếp.
2. Thiên Chân - Có 7 Thời Kỳ Tu Dưỡng
Nhờ văn tự để hiểu biết.
Nhờ hiểu biết để lãnh hội.
Nhờ lãnh hội để thực hiện.
Nhờ thực hiện mà thông suốt.
Nhờ thông suốt mà Hư Vô.
Nhờ Hư Vô mà đạt Đạo.
Nhờ đạt Đạo mà thay Trời hành Đạo.
3. Hành Đạo - Lập Văn Tự
Còn nói được là còn lập văn tự, là còn đi trong cơ phổ truyền giáo hoá để độ môn sinh.
Còn nói không ra lời là đi vào chỗ tham thiền nhập định, luyện tánh, tầm lý quang minh. Khi đã tìm được chơn lý quang minh là không còn lời để nói chỗ siêu diệu của Đạo.
Vì:
Diễn giải sẽ sai.
Nghe thấy chưa chánh.
Hiểu biết chưa đủ.
Đo đường không được.
Nhận xét không thấu.
Vô tướng, phi tướng.
Chơn lý miễn bàn.
Đã đi vào miễn bàn thì ai tu nấy đạt, ai ngộ nấy biết, ai luyện nấy thông, ai học nấy hiểu chỗ quang minh. Đã thật đến chỗ minh diệu vô vi là miễn bàn.
4. Mở Sự Huyền Ẩn Của Đạo
Cánh cửa lương tâm mở ra thì truy được cái Thiên Lý gần xa huyền sáng.
Cái đức hạnh dấn thân tự học mở ra, sẽ thấy được các cảnh giới thanh tịnh.
Cái độ lượng nhân hoà từ ái mở ra, thì sẽ gồm thâu được không gian lớn rộng vào trong lòng mà xét cho thông suốt chỗ linh tâm.
Cái tánh lý huyền tịnh mở ra, sẽ kết hợp được điển quang Thiên Lý để lập đảnh an lư kết thai hành độ.
Cái linh tâm mở ra, sẽ cảm ứng được lòng Trời ban phát linh khí của Hư Vô, tự nhiên an tịnh.
Khi hiểu được Đạo Lớn.
Thì phải biết ẩn ngôn.
Các sự linh ứng cảm.
Học được và sự hiểu biết.
Phải bí mật vô vi.
Để truy tiếp tục Thiên Lý.
- Đến đây phải nhớ kỹ:
Động thì tuột - che lấp.
Tính toán thì mất - ẩn yên.
Lộ bày thì hết linh - vô vi.
Hiểu biết thì an - yên lặng.
Đủ đầy thì yên - thông suốt.
Thanh tịnh thì sáng - linh tâm.
Đạt định thì huyền - huyền ẩn.
Vô tư tự nhiên thì - hiện rõ.
Vô vi siêu nhiên thì - Lục Huệ.
Đạt Lục Huệ ra vào Sáu cõi.
Mở linh tâm lên xuống ba nhà.
Thông suốt pháp giới hồi quang phản chiếu diện mục bổn lai.
Thấu hiểu Thiên Cơ mà lại sống an nhiên với Đạo.
5. Luyện Đạo Quang Minh.
Minh được Đạo thì các linh cảm mở ra để ứng vào bộ máy huyền vi của Thượng Đế mà thấy biết để học cái khoa học siêu nhiên.
Huyền được Đạo là kết tụ tất cả các khí linh của Trời Đất vào trong Đạo, lưỡng cực Âm Dương nhị khí. Rồi hội tụ tất cả linh thể của Thượng Giới vào Kim Thân mà kết thành một Linh Thai của Đạo, an tụ ở cung Thái Cực. Luôn ở ngôi giữa hiệp lý trung dung mà an các khí Dương thuần bổ Dương, Âm thuần bổ Âm, mà kết khí linh vào lập thể.
Thể đó thuần Dương.
Thể đó thuần Âm.
Thể đó không Âm Dương.
6. Huyền Hoá
Nó đi lên thâu khí Vô Cực.
Nó đi qua trái qua phải thâu khí Âm Dương.
Nó ở ngôi giữa nắm giữ tâm Đạo.
Đức của nó hiệp vào cùng Trời Đất.
Đạo của nó hiệp vào lò lớn Vô Cực.
Nhân của nó hoà vào biển yêu từ ái.
Bi của nó sanh ra Đại Bi để cứu độ.
Trí của nó sanh ra Đại Trí để thuyết pháp.
Dũng của nó sanh ra Đại Dũng để hộ pháp.
Nó đi ra ngoài chu du Sáu Cõi học tập.
Nó đi về lò Trời để luyện Thần Quang.
Nó đi xuống Ba Nhà để phổ bá.
Hỏi nó thì nó lại vô danh.
Học nó thì phải vô vi thanh tịnh.
Hiệp nó thì phải quang minh chánh định.
7. Cõi Phi Phi Tưởng
Đạo Trời thì bao la, người ngộ Đạo thấy hình như ở trước mắt.
Tình Trời như biển lớn, người ngộ gom trọn vào trong lòng cất kỹ.
Đạo tức chủ thị
Chủ thị là tâm.
Nhãn thức tâm thông.
Nhãn thông tâm thức.
Soi đâu tỏ đó.
Truy đâu biết đó.
Học đâu hiểu đó.
Minh đâu đạt đó.
Vô vi rồi lại vô vô vi.
Hửu vi rồi lại hiển hiển vi.
Động tịnh rồi biến giải vô cùng.
Vô tư rồi lại hiện về đầy đủ.
Tâm là nhãn tạng, là Thiên Lý vô hình. Rồi trong cõi Vô Hình lại có cõi Vô Vô Hình làm chủ:
Điều hành Tam Giới.
Lãnh đạo Càn Khôn.
Có qua hết Vô Cực Hư Linh Chi Khí thì mới lộ ra một cảnh hiện hửu. Đó là một nước Trời Vô Vô Vi Huyền Huyền Ẩn, Hiển Hiển Vi Chí Linh Chí Diệu Chí Vô Tư, mà lại hiện thân rõ cả Tam Giới làm việc.
8. Hình Đồ Tam Thế
Trời Động - Đất Tịnh - Nhân Hoà.
Trời động chuyển khí,
Khí hoá vận hành,
Sanh sanh hoá hoá.
Đất tịnh yên chịu,
Lặng lẽ dưỡng nuôi,
Muôn loài vạn vật.
Người tu mới đắc,
Nhân đạo suốt thông,
Trên hoà dưới thuận.
9. Không Gian Là Đạo
Trời không gian,
Trời tròn Đạo.
Đất yên tịnh,
Đất gần Đạo.
Người thế gian,
Bởi còn gian,
Nên xa Đạo.
10. Chánh Khí Trời Đất
Hư Vô - Huyền Khí.
Thái Cực - Thanh Khí.
Lưỡng Nghi - Âm Dương Khí.
Tam Thanh - Trời Trăng Sao Khí.
Tứ Tượng - Bốn Mùa Khí.
Ngũ Hành - Ngũ Khí Triều Nguyên Khí.
Lục Đạo - Lục Mạch Thần Khí.
Thất Trùng Thiên - Thất Tình Lục Dục Khí.
Bát Quái - Bát Tiết Thời Khí.
Cửu Trùng Thiên - Chánh Khí Trời Đất giao hoà trở lại Nguyên Thuỷ.
1. Hư Vô Huyền Khí chuyển Thần Linh
Vô hửu sanh ra vật có hình
Hoá hoá sanh sanh, Không làm chủ
Sanh Trời, sanh Đất, vạn sinh linh.
2. Thái Cực là thân thể Đất Trời
Trung dung minh chánh nắm ba ngôi
Đòn cân công lý là cơ Đạo
Vũ Trụ Càn Khôn lập lại rồi.
3. Âm Dương Trời Đất chủ Càn Khôn
Phân định hai ngôi của vía hồn
Nam ở Thiên Hoàng chầu Ngọc Đế
Nữ sanh về Mẹ ở Diêu Cung.
4. Tam Thanh giáo chủ đứng ba ngôi
Săn sóc ngày đêm cái máy Trời
Coi ngó trời trăng hàng tinh tú
Vận hành luật Đạo giúp nhân loài.
5. Tứ Quý sanh ra luật bốn mùa
Đông, Tây, Nam, Bắc chuyển hườn Vô
Bốn mùa tám tiết luôn giao cảm
Định lý Càn Khôn luôn điểm tô.
6. Ngũ Đế trong coi luật Ngũ Hành
Triều nguyên năm khí hoá sanh sanh
Ngũ Hành sanh khắc luôn hành luật
Dẫn độ muôn loài cứu chúng sanh.
7. Lục Đạo xưa nay tỏ rành rành
Nhẹ lên Tiên Giới học Tam Thanh
Nặng theo Lục Đạo đi trả nghiệp
Vào kiếp luân hồi hoá chúng sanh.
8. Thất Tình Lục Dục giữa nhân sanh
Dứt khoát quay lưng Đạo mới lành
Mộng trần cháy sạch tiêu lòng dục
Trở gót hài Tiên, Đạo mới thanh.
9. Bát Công Đức Thuỷ chuyển Càn Khôn
Trận pháp Trời sanh ứng vô cùng
Trên chuyển máy Trời theo hình luật
Dưới thâu Địa Sát dạy linh hồn.
10. Chín Khí Đất Trời được hoá sanh
Chín luồng thuỷ điển độ năm hành
Pháp Trời trăm họ về an trụ
Chính Khí trong coi cơ Hoàng Vũ.
(Hết trang 12.)
(Tiếp theo trang 111.)
155. Định Quán Tâm Kinh
Kẻ muốn tu Đạo trước phải dứt bỏ cái lòng trần. Việc trần dứt hết chẳng còn động tâm. Rồi sau mới ngồi yên để xét thấu chơn tâm. Kế đến các tham lam, nghĩ xằng, trôi nổi, thảy diệt trừ hết. Đêm ngày lo công phu, phút giây không ngừng nghỉ.
Chỉ trừ tâm động, không trừ tâm sáng. Chỉ chuyên chú tâm không, chẳng chuyên chú tâm trụ.
Không ỷ lại bất cứ một pháp nào, thì mới mong đứng vững hoài hoài, tức là tập tâm pháp.
Phàm tâm luôn tranh giành. Kẻ học Đạo trừ nó rất khó, hoặc trừ không nổi. Nhưng bỏ qua như không có, ắt nó tự mất đi. Tranh giành qua lại đẻ ra trăm cái xấu.
Kiên nhẫn suy nghĩ kỹ càng mới có thể thuần thục chính chắn. Chẳng nên vội vã thâu lượm kết quả, rồi muôn ngàn đời Đạo Quả chẳng thành. Khi mình còn thiếu thanh tĩnh, thì vẻ uy nghi được biểu lộ vào trong những lúc đi đứng ngồi nằm. Trốn giao tiếp nơi ồn ào. Phải làm cho ý yên định. Cái có, cái không đều trở về cõi Hư Vô. Trốn yên, trốn động, cuối cùng cũng hiệp lại một.
Nếu bó tâm gắt quá sẽ sanh bệnh uất khí, thành điên cuồng, đó là nguyên do.
Nếu tâm bất động, phải lo thả lỏng, mau chậm đúng lúc. Luôn luôn tự điều hợp thích nghi cùng hoàn cảnh.
- Gò bó mà không trói buộc.
- Buông thả mà không động loạn.
- Ồn ào mà không đáng ghét.
- Phiền phức mà không chán nản.
Đó là chơn định.
Không tiếp được sự vui vẻ, nên sanh ra lắm chuyện. Nếu muốn một cách gượng ép sẽ sanh rối rắm.
Lấy sự không phiền toái làm nơi trú ngụ đích thực.
Gặp trở ngại phải giải quyết một cách êm xuôi.
Nếu lấy gương nước để soi ắt mọi điều hiện rõ.
Mọi phương cách muốn giải chỉ nhập định mới có thể huệ phát mau lẹ. Người trong khi tịnh chẳng nên gấp gáp, ắt làm thương tổn tới tính. Thương tổn ắt không có huệ.
Nếu như định mà không cầu huệ thì huệ mới sinh, đó là chơn huệ.
Có huệ mà không dùng tới, thật biết rõ mà như dốt, thì huệ mới hiệp về tròn sáng.
Định huệ gia tăng càng đẹp vô cùng.
Nếu trong lúc tịnh còn nghĩ ngơi vẩn vơ, quyến luyến tà khí, vấn vương thăm mối, Yêu Ma sẽ theo đó mà xuất hiện liền liền phá quấy.
Được thấy Thiên Tôn, Chân Nhân là điều tốt lành vậy. Nhưng không có ý đến lại gần các Ngài.
Trước khi định, làm sao cho tâm trống vắng, không gì che phủ.
Sau khi định, tâm rỗng rang không gì ngăn cản.
Nghiệp cũ ngày một tiêu tan. Nghiệp chướng chẳng gây thêm, không còn trở ngại, để thoát xa lòng trần thế.
Chịu khó thực hành những điều nói trên lần lần, tự nhiên đắc Chơn Đạo.
Phàm những kẻ Đắc Đạo tất có được bảy điểm như sau:
Kẻ tâm đạt định, dễ thấy các tánh trần hiện ra.
Kẻ trừ hết các thói tật kiếp trước, thân tâm nhẹ nhỏm, sảng khoái vô cùng.
Kẻ tự bồi bổ khỏi chết sớm, sẽ hồi sinh trở lại, trường sanh.
Kẻ có số mạng dài cả mười ngàn năm gọi là Tiên Nhân.
Kẻ luyện hình chất thành khí lực gọi là Chân Nhân, tức người thành Đạo.
Kẻ luyện khí thành Thần gọi là Thần Nhân, tức người đạt Đạo.
Kẻ luyện Thần làm một với Đạo gọi là Chí Nhân, tức người thành Đạo.
Sức Đạo soi càng mạnh, hoả khí càng tỏ sáng.
Tu tới mức thành Đạo trí huệ tròn đầy.
Nếu học tịnh tâm một thời gian lâu mà chưa có một chút thanh điển, tuổi tác thêm cao, thể chất suy nhược, sắc diện phai tàn, mà tự cho mình mở huệ đắc Đạo Quả, thực chẳng hợp lý chút nào. Các vị chơn tu nên nghĩ kỹ.
156. Ba Bước Thiền
Sơ Pháp Môn Thiền Học: Là phương pháp luyện khí Dương để bổ Dương. Dùng hơi thở dài để mở luồng điển Nhâm Mạch, Đốc Mạch. Khai thông khối óc, quân bình Ngũ Tạng, thanh lọc điều hoà kinh mạch.
Trung Pháp Môn Huyền Học: Là dùng hơi thở nhẹ nhàng, điều độ, cho chạy dọc theo đường Nhâm Đốc Mạch. Lấy Dương bổ Dương, lấy Âm bổ Âm, cho hai khí trong người thuần Dương, thuần Âm, tự nhiên phát huệ. Từ đó mở được Tam Thanh, Ngũ Khí, Lục Mạch, Tam Điền, mà biết được một phần Thiên Lý để vào Trung Giới học Đạo.
Đại Pháp Môn Giải Thoát: Là làm chủ hai khí Âm Dương, thuần Đạo Thái Cực. Học chỗ an lư lập đảnh, kết thai. Luyện chỗ khiếu linh, thu hút khí linh của Trời Đất để khai mở linh tâm. Biết được ngày giờ Vũ Trụ mở cửa để vào lò Trời luyện khí hoá hình, luyện hình đạt Đạo. Rồi đem ba thốn khí hiệp cùng khí hoá của Hư Vô chi khí. Biết ngày giờ vào thất để định cho có kết quả và cũng để dưỡng Thánh Thai sản thể.
Học mật ngữ để mở khiếu linh.
Học ẩn ngôn để thông suốt Trời Đất.
Tất cả đều nằm trong Khoa Học Huyền Bí của Trời.
- Hết -
(Hết trang cuối.)