Dạ! Con là Đệ Tử, con kính xin cuối đầu đảnh lễ Đức Phật Thầy Vô Danh Thị và Sư Mẫu tôn quý.

Với sự đồng ý của Sư Mẫu, Người đã đưa cho con quyển THAM THIỀN NHẬP ĐỊNH và một số kinh sách THÁI BÌNH với mục đích để cho con chiêm nghiệm hàng ngày.
Sẵn đây, con xin phép được tiếp tục đánh lại quyển THAM THIỀN NHẬP ĐỊNH, mỗi ngày vài trang, cho đến khi kết thúc. Một phần vì mục đích tự thân học tập, một phần để lưu lại về sau, một phần muốn chia sẻ với các bạn đọc khắp nơi một quyển sách quý. Hễ ai có duyên với Kinh Sách Thái Bình, thì cùng vào đây xem và cũng có thể copy lại rồi in thành sách và chia sẻ với nhiều người khác để cùng tu tập.
Nam Mô Hoan Hỉ Thiên Cương Phật.
Nam Mô Quán Âm Như Lai.
Nam Mô A Di Đà Phật Vạn Vật Thái Bình.
🌹🌹🌹
***
THÁI BÌNH
THI VĂN
TÂM LINH ĐẠO HỌC
Tập 20
THAM THIỀN NHẬP ĐỊNH
TRUNG TÂM ĐẠO HỌC THÁI BÌNH
Xuân 1995
***
CẢM TẠ
Con thành tâm cảm tạ Thiên ân của Đức Phật Tổ, Đức Cha Trời Mẹ Đất, và Cộng Đồng Cửu Phẩm - Phật, Tiên, Thánh, Thần - Tam Giới Thiên Địa Nhân.
Con cũng thành tâm cảm tạ công ơn Thầy Tổ và chư vị Đạo Hửu ở địa phương và năm châu thế giới, đã đặc biệt quang chiếu Thanh Quang Điển Lành và trợ giúp cho con có phương tiện thực hiện các tập sách - Thi Văn Tâm Linh Đạo Học - để con và chư vị Đạo Hửu có cơ hội phụng sự Cơ Thiên Địa Đại Đạo của Đức Như Lai Phật Tổ và Đức Thiên Địa Phụ Mẫu.
Con chân thành ước mong được chia sẻ Tình Thương, Đạo Đức, và sự hiểu biết về Sức Khoẻ và Tâm Linh Điển Quang Đạo Học cùng với cộng đồng Nhân Sinh, Vạn Linh Tam Giới.
Một lần nữa con xin thành tâm đảnh lễ và cảm tạ Thiên Ân Bề Trên, và con đặc biệt cảm tạ chư vị Đạo Hửu, Thân Hửu cùng tất cả quí bạn đọc khắp nơi trên thế giới đã và đang dành rất nhiều cảm tình và sự trợ giúp quí báu.
Trân trọng kính bái,
Thầy Vô Danh Thị.
***
LỜI TỰA
Tu Tâm Tự Học. Tu học là để biết rõ các vật mà ứng hiệp được cái Thiên Lý tự nhiên. Còn tu tâm luyện Đạo là để cho mình cảm ứng ngộ tánh Thiên Lý. Còn sự đốn ngộ hiểu biết là do cái tâm của con người. Khi tâm tỏ sáng, lo gì sự việc xảy đến mà mình không soi được.
Vậy việc Tu Tâm Tự Học cốt là tự làm sáng cái tâm mình. Còn người đang tu học, chỉ lo tâm mình chưa sáng, chứ không cần lo Vũ Trụ và dòng đời bên ngoài thay đổi.
Người dùng chí tu tâm không khác gì người trồng cây vậy. Lúc đầu chỉ có một hạt mầm, chưa có thân cây. Khi có cành rồi thì lại có lá, có hoa, có quả. Lúc mới trồng chỉ lo sự tài bồi phân bón, đừng trông mong có hoa có quả, có lợi có lộc. Hễ cây tốt thì tự nhiên có hoa có quả, có lợi có lộc.
Còn Tu Tâm Tự Học là vun bồi cái tâm cho sáng, như tự lọc cho mình một dòng nước trong lành. Nước dơ bẩn tự nó thanh lọc trở thành trong. Như cái gương bị bụi bám thì mờ. Bụi ấy là cái tư dục của con người ta. Cái tâm vốn không tối, chỉ vì cái tư dục che đi, cái tạp tục làm hại. Nếu bỏ được cái tư dục, cái tạp tục, thì tự nhiên tâm sáng. Tâm đã sáng, học bao nhiêu cũng không rối, càng học càng thông suốt, và hiệp được chơn lý Nhất Nguyên.
Đức độ là cái gốc
Tu học là cốt yếu.
Đi về cái đức độ là nguồn gốc của Hư Vô.
Đi về cái tu học là pháp lý ứng dụng.
Người đã có tâm cầu học là đã khêu sáng ánh sáng linh giác của chính mình. Khi đã sáng, tự nhiên cái Linh Tâm thông suốt, thấu triệt được chơn lý Hư Vô. Lúc đó không câu chấp việc gì. Hay thì cầu học, dỡ thì tu bổ cho linh tâm.
Tâm Học Thanh Tịnh Minh Đạo
Tu Học Cảm Ứng Linh Đạo
Kính Bái,
Đức Thầy Vô Danh Thị.
Chơn Đạo Vô Hình.
Chơn Phật Vô Tướng.
Chơn Nhơn Vô Danh.
Chơn Tu Vô Tranh.
(Hết trang 2.)

không thể diễn tả bằng lời. Xin thỉnh pháp cao hơn. Hoan hỷ hoan hỷ
(Tiếp đầu trang 86.)
Xưa nay học Đạo truyền tâm
Người đạt Linh Tâm làm Tổ.
Đạo Học duy tâm
Tâm học truy nhân.
Cho nên các vị thầy tổ muốn truyền Đạo cho ai, thì người đó được Cộng Đồng Tam Giáo nhồi không còn thuốc chữa. Rồi để coi ngộ tánh của hàng môn đệ đó đi được đến đâu. Rồi lại chuyển nghịch thành thuận, thuận thành nghịch, để xem hàng môn đệ đó có nản lòng bỏ Đạo, bỏ tu hay không. Nếu không thì đốt, đốt cho cháy hết Thất Tình, đốt cho tan hết chúng sanh tánh. Rồi nói điều ác đổ tội cho gánh. Nếu gánh nổi thì hàng môn đệ đó đã thành Phật rồi vậy.
Lúc đó Thượng Đế mới triệu về sắc phong. Phật Mẫu ban ân, thưởng thí. Các hàng Đại Giác Tiên Nhân hoan hỷ tiếp đón, tiễn đưa. Thánh Nhân lui tới để bàn kinh thi. Thần Nhân kỉnh đức theo phò hộ. Quỷ Thần cung kính theo học. Tam Giới mới sáng toà đạo hào quang Đại Bi, Đại Trí, Đại Dũng trên Thiên Không, để hàng thiện nam tính nữ học Phật tu nhân thuần Đạo.
Thông minh thành Đạo Lớn
Kiên nhẫn đỗ Trạng Nguyên.
Thông suốt được Đạo để minh tâm kiến tánh, thì mới có cơ hội thành Đạo Lớn.
Còn kiên nhẫn đến mức quên cả thân mình, để tròn nhân, trung, đạo, nghĩa. Trên hiếu thuận lòng Trời, dưới Thánh Thần kính nể. Đó là hàng văn võ song toàn, là bậc Trạng Nguyên Đạo Học của Tam Giới rồi vậy.
Võ Đạo biết an định
Văn Đạo biết gồm thâu.
Thiên văn, địa lý, kỳ binh, bố trận, độn giáp, thiên cang. Võ Đạo đều lào thông, mà nhịn được hàng Bá Đạo múa gậy rừng hoang, lao rìu trước mắt thợ, nhưng mà thợ vẫn không xuất chiêu. Đó là đã đạt tới chỗ 'Võ Phi Thường Võ' rồi vậy.
Còn văn học, phổ kinh, lào thông thơ phú, âm luật, mà lúc nào cũng luôn khiêm nhường, cho mình là kẻ dốt học, thì đó là bậc Đại Giác Kim Tiên mới có đủ đức để nhẫn nại trước mặt hàng thiện trí thức. Vì học Đạo đến chỗ: 'Văn Phi Thường Văn,' 'Đạo Phi Thường Đạo.'
Hư Vô là cõi thanh tịnh tự nhiên, ai có vào được chỗ đó tu luyện mới thông suốt ở chỗ:
Hư Vô hình tướng vốn không
Trước sau một khí Linh Tâm hiệp vào
Đài cao mà lại phi lai
Đạo cao mà ngộ không đài về Không.
Đạo Gia luyện chỗ Chơn Không
Phật Gia học chỗ Không Không.
Đạo Gia lấy chỗ Hư Vô Chi Khí để luyện Huyền Thai, kết đảnh cho Kim Thân có đầy đủ khí linh pháp lực.
Phật Gia học sanh hoá Huyền Khí cho Xá Lợi Phật được quang minh chánh giác.
Đạo Gia quy tựu Tam Thanh
Phật Gia luyện tròn Tam Bửu.
Đạo Gia lấy lò lửa Hư Không để rèn luyện Thần-Khí-Tinh cho thanh Bạch Tượng, cho linh Thánh Mệnh.
Phật Gia lấy lửa Hư Không luyện ba vật báu đại diện người Trời Đất.
Đạo thanh, tịnh Lục Tặc
Phật thanh, sạch tướng pháp.
Lưu thanh khử trược là mới đi bước thứ nhất của Đạo Gia. Bước thứ hai là lưu được thanh, phải cầm thâu tánh vào tịnh giới đồng đi học Đạo. Bước thứ ba là đắc Kim Tiên Như Lai, rồi vào Hư Không, lò lửa của Trời để luyện cho Nhị Khí, Tam Tâm, Ngũ Đức, Lục Đạo, được thanh sạch, để thành một vị vua có đủ quyền binh pháp lực.
Còn Phật Gia vào đó trui luyện Chơn Quang Diệu Tướng cho quang minh. Trên đại diện Trời, dưới thấu vạn pháp, thì mới có thể gọi bậc chí nhân thành Đạo.
Lập Thất đi vào Đại Định
Luyện Khí cho Đạo hườn Không.
Đến lúc nầy phải Vào Thiền Thất luôn luôn. Không đọc một quyển sách nào và ghi chép điều gì. Bởi vì thiên kinh vạn pháp đều hiện ra trước mắt.
Tự mình tập tự lực cánh sinh, không thọ chay tăng, không nhiễm pháp thí, để khỏi vướng mắc các hình tướng hửu vi níu kéo.
Cũng không được nhìn ra ngoài cửa sổ, để cho các duy thức của trần gian thanh tịnh mà học Đạo Chánh Đẳng Chánh Giác.
Không được trễ một thời pháp nào, cho Lục Căn, Lục Trần, Tánh Vía và 1250 vị Tỳ Kheo nghiêm chỉnh luyện Đạo, chưởng dưỡng hào quang của Mười Phương Chư Phật quang minh tiếp dẫn.
Luôn giữ chay tịnh, điều lành không nghĩ, điều quấy trừ diệt. Trước sau lo hành pháp và niệm Hộ Pháp Chơn Kinh. Mỗi mỗi phải thanh tịnh.
Thấy việc gì cũng không được ghi lại. Không được kể lại cho ai nghe. Không được hứa học phép tắc hay những gì của các cõi vô hình chỉ dạy. Nếu thấy các vị ở vô hình và các cảnh giới hiện ra, nên thả lỏng, không nên động tâm cầu học. Nếu động tâm cầu học là rớt pháp rồi vậy.
Có lỡ rớt pháp, cũng phải ở trong đó tu luyện cho tới ngày mãn. Không được bỏ ngang đi ra ngoài. Nếu bỏ ngang, là muôn đời nghiệp Đạo chẳng thành. Vì Thần, Tiên, Long Thần Hộ Pháp không bao giờ gia hộ.
Lúc Vào Tịnh Thất, phải hỏi minh sư cho rõ ràng mạch lạc các pháp môn và môn quy, trước khi Vào Thất, và xin minh sư hộ pháp, theo dõi hộ độ cho mình.
Không nên tự ý Vào Thất mà không thông rõ các việc nói trên.
Trong khoản thời gian Vào Thất, cho dù bất cứ việc quan trọng gì xảy ra, cũng giữ một lòng ngồi tịnh luyện. Không bỏ tu, không được ra ngoài. Nếu bỏ tu và ra ngoài là rớt pháp đó vậy.
Học Đạo không thân sơ
Dứt tình Lục Dục chết.
Tu đến đây, lấy Công Đạo mà hành, không vì thân bằng quyến thuộc mà bao che. Ai ai cũng là một - chúng sanh, trước Thiên Toà Bảo Pháp. Có dứt khoát hết cái lòng trần tục, thì Lục Dục tiêu diệt, hoạ phước vô phương quấy phá, và tự nhiên thông suốt chơn lý, tự nhiên đắc Chơn Đạo.
Đắc pháp hiện rõ bổn lai
Đạt Đạo truy ra diện mục.
Thông được Linh Tâm, đắc được Phật Pháp, thì tìm ra mình là ai, từ đâu đến, và phải làm gì kế tiếp với Đức Thượng Đế và Phật Mẫu và Chư Tiên Phật.
Đến đây, các nguồn pháp của Đạo như đưa thuyền Linh Tâm Giác của mình thấu lộ Thiên Chơn cảm ứng cho hiệp với lòng Trời mà hành Đạo.
Thơ
Đạt Đạo là tâm luyện được tròn
Khí linh đầy ấp cả Thiên Không
Ba Nhà Sáu Cõi thường qua lại
Phản chiếu hồi quang mãi chánh chơn.
Đắc Pháp huyền linh Trời Phật dạy
Đạp mây mượn gió khắp Tam Thiên
Đi về thanh tịnh trong tiềm thức
Khai mở thần thông đạt bảo truyền.
Hết.
(Hết trang cuối của quyển Tham Thiền Nhập Định.)
(Tiếp đầu trang 76.)
Tâm quy hiệp Đạo Trời
Pháp hoá thân Pháp Giới.
Tu đến đây, tâm và Đạo hiệp làm một, nên cảm ứng rất là linh thiêng.
Bụi trần tan rã
Thiên Chơn hiển Đạo.
Hoá thân hiển Đạo khắp mọi nơi. Cứu khổ ban vui cho các giới không ngừng nghỉ.
Đạo linh nhờ Đạo chuyển
Pháp linh nhờ Thiên Điển.
Đạo mình được linh ứng là nhờ hiệp được lòng Trời, mà soi tỏ chân bản tánh nguồn cội. Cho nên Trời chuyển 'Thế Thiên Hành Đạo.' Còn tâm pháp đắc thành thì hiệp được cùng các pháp giới của Trời Phật Tiên Thánh Thần. Nên đến đâu đều được các vị gia hộ, tiếp giúp. Cho nên pháp linh vô kể là vậy.
Huệ Mạng Kim Cang cầm chưởng pháp
Huyền cơ hiển lộ thông Trời Đất.
Kim Thân Như Lai nắm tâm pháp, tức là cầm Huệ Mạng Kim Cang của Phật Pháp mà chưởng quyền làm việc trong Tam Giới. Nên thấu hiểu được luật của Trời Đất, tự hoá duyên hành Đạo.
Trên thâu linh khí của Hư Vô
Dưới chưởng dưỡng hào quang luyện Đạo.
Hào quang Bộ Đầu giao tiếp với không trung, thâu khí linh của Trời vào trong nội thể để chưởng dưỡng đạo hào quang của mình. Để cho đạo hào quang một ngày một toả sáng mà đi khử trược lưu thanh, cứu đời hành độ cho người thiên hạ được cảm hoá mà học cái Đạo của Trời.
Đạo Trời tâm sáng thần minh
Dùng văn phổ độ dùng kinh chỉ đường
Ai cầu học Đạo Tây phương
Nay cơ Di Lạc người thương ra đời.
Trước đem giáo Đạo của Trời
Cho người tu luyện lập đời Thượng Ngươn
Thái Bình nước Phật Bảo Vương
Niết Bàn đem xuống Phật Vương ra đời.
Cùng nhau xây dựng nước Trời
Lập cơ đạo đức học lời Thánh Kinh
Trời ban hồng phúc Thái Bình
Phật xây Thánh Đạo hoàng sinh độ đời.
Cánh Cửa Của Nhân Quả.
Nhân quả là ba cánh cửa của Thiên Đàng, Địa Ngục, và nhân gian.
Người là do từ Trời xuống để học tiến hoá, tích đức tu thân, luyện mình thành chánh quả, để mở cửa tâm linh, thông tri với Trời Đất. Từ đó mới luyện Đạo Âm Dương để quán thông luật Đạo mà coi máy Âm Dương, điều hành Ngũ Khí, thấu rõ luật Đạo chuyển hình, khai thông Khoa Học Huyền Bí Vô Vi.
Học tâm pháp quy căn
Luyện Âm Dương đắc pháp.
Có học tâm pháp và luyện Đạo cho thanh nhẹ, thì từ đó mới thông Thiên học Đạo cùng các hàng trí thức đại giác.
Dùng linh điển truy tâm
Hiệp Hư Vô thành Đạo.
Tâm khai mở ra, linh hồn bước vào nhà lớn của Vũ Trụ mà tập luyện Huyền Công Tam Muội để đắc pháp thành Đạo viên mãn.
Còn người thiện trí thức biết lo bồi tô công phu, công quả, công trình, là tự tạo cho mình một nguồn thiện duyên từ kiếp nầy cho kiếp tới.
Nhân trồng ở kiếp nầy
Quả kiếp sau hưởng lấy.
Cho nên trong một kiếp làm người không nên từ bỏ các thiện duyên đưa đến cho mình.
Nhân không trồng, không quả
Đạo không luyện, không huệ.
Không trồng cây thì không có trái. Không trồng nhân lành thì không có quả lành.
Người nghèo khổ bệnh tật đời nầy, là do kiếp trước họ tích ác, chướng duyên, ngăn Đạo. Và đã chịu nhồi quả dưới Địa Ngục xong, mới cho đầu thai. Nên tính lương thiện họ chưa trồng, thì sợ kiếp tới không có cơ hội làm người để hưởng hồng phước ân ban của Trời Đất.
Đạo do tâm mình tu
Nhân duyên do mình trồng.
Tu tâm luyện Đạo phải cần có phương pháp, công thức rõ ràng, mạch lạc, và phải tầm các vị minh sư đã giải thoát rồi, và đã ra thuyết pháp. Vì trên mình của vị Đạo Sư đó có ba cái linh:
- Một là thanh quang điển lành đầy ấp. Pháp thuỷ ban hoài không hết, để khai trí, phá mê, để cho người mới vào tu thấu lộ chơn giác.
- Hai là các vị có trọn vẹn các cây chìa khoá vô hình để lựa chọn các hàng môn đệ đủ kiên nhẫn, đủ ngộ tánh, mà trao cho mối tâm truyền khẩu khuyết, đó là phương pháp Vô Vi Huyền Bí Khoa Học Duy Tâm.
- Ba là các vị có các kinh nghiệm hành pháp, thí pháp, luyện pháp, từ hửu lẫn vô, và học cơ siêu thoát của cõi vô hình, xuất hồn đi học Đạo trên cõi Thiên Không.
Có theo học dài hạn, từ từ vị minh sư đó mới trao lần lần cho mình phương thuốc tự trị, và cây chìa khoá bí mật của Vũ Trụ, thì mình mới trở thành một vị môn đồ chính thức của Đạo Gia. Nếu không được vậy, dù có tu các pháp hữu vi mãn đời cùng kiếp chỉ được cái phước hư lậu của thế gian mà thôi.
Đạo không đức không truyền
Nhân vô hậu không dạy.
Tu học là cải tà quy chánh, sửa ác thành thiện. Rồi tu thiện thành chơn, tu chơn mới hiệp cùng Đạo Lớn.
Còn người vào tu, tánh ác không trừ, lòng tà chẳng diệt. Mỗi mỗi không phân minh, thiện ác mù quán. Rồi cầu chơn sư dạy Đạo cho cao, truyền pháp lực cho giỏi. Thì không một vị chơn sư nào mà dám truyền Đạo Học cao siêu huyền bí cho đứa ác bao giờ. Tức là nhân duyên mình trồng đó.
Mình là người học Đạo, đi tu, mùi trần đầy dẫy, thiện tánh không có, từ bi hỷ xả và ngộ tánh chơn giác chưa minh, mà cầu thầy dạy pháp huyền bí cho mình luyện tập. Cho dù vị thầy đó có thọ ơn thí của mình mà truyền cho mình, nhưng khi mình siêu xuất, Chơn Thần lên các cung, các cõi trên Trời học Đạo, thì các vị Thần canh giữ cõi Trời cũng đuổi xuống, và đóng cửa Thiên Môn của mình lại. Hay là các vị Phật Sự, Thiên Tôn, thấy mình chưa được thanh sạch, đuổi về không dạy. Thì đó là nhân do duyên mình trồng sai là vậy.
Còn thật lòng tu sửa, thì Thần Thánh rước đưa, Tiên Phật hoan hỷ giáo dạy truyền đạt huyền công bí pháp cho tu lên cao hơn.
Trời Đất cầm luật Đạo
Tiên Phật xử công bình.
Dấu người thì dễ, dấu mình không được. Như vậy thì làm sao mà dấu với Trời Phật được.
Tu tự biết cải sửa
Luyện tự biết trau giồi.
Thay cũ đổi mới, bỏ ác làm thiện. Tích đức, trì tâm học Đạo. Học chỗ hay, bỏ chỗ dở. Học giải thoát. Thay đổi lòng phân biệt. Cải tánh diệt danh. Quy Không hiệp Đạo.
Gương càng chùi càng sáng
Đạo càng luyện càng linh.
Lương tâm của mỗi con người là Minh Kính Đài, Thiên Tâm trực giác. Nếu biết lấy pháp thuỷ mà rửa ngày đêm, thì bụi bậm tự nhiên tan rã, sự sáng suốt từ đó hiệp về thuần phong thiện mỹ. Còn Đạo Gia có công tu tập, Giới định huệ mới tròn đầy, thì Đạo Gia mới giải thoát.
Học Đạo cầu chơn giải
Thành Đạo mình minh giải.
Lúc mình học Đạo thì còn nhờ vào thầy độ mình, để cho thông suốt đường đi nước bước mà hành cho đúng. Mình tập luyện lâu ngày, học tập thuần phát, thì mình trở thành hàng môn đệ truyền nhân của thầy. Tức là hàng minh triết đạo đức của Đạo Gia rồi vậy.
Kỉnh thầy được làm thầy
Đạt Đạo được truyền Đạo.
Lễ, đối với thầy không câu chấp, nhưng cần phải có. Vì nó là hàng Tứ Thánh; là hàng Môn Quy của Thượng Giới; là nhân nghĩa của trần gian; là lòng biết ơn của hàng môn đệ. Cho nên kỉnh thầy để được làm thầy.
Đạo dùng pháp để thí
Nhân độ lượng bố thí.
Đạo là sự chơn giải sáng suốt, nên thường do các vị đạt Đạo truyền bá pháp thí. Còn người hành Đạo, khi bị sỉ nhục, nên lấy độ lượng mà tha thứ cho hàng mê muội.
Thua người để dưỡng Đạo
Khiêm nhường để học Đạo.
Thua người để thắng lòng phân biệt của mình, là hàng đạo đức. Tha người để tiến đức cho mình là người có Đạo.
Dạy cho người mình tha thành hàng môn đệ giải thoát, đó là người thành Đạo. Chỉ có bậc thành Đạo mới đủ dũng để làm tròn nhân nghĩa.
Còn Đạo cao không muốn đầy. Đầy sợ tràn. Vì vậy phải lấy hạnh đức khiêm nhường, để cho đạo đức của người tu khỏi bị tràn ra ngoài. Nếu đã tràn ra ngoài thì thật là vô vị.
Hành Đạo khai sáng nhân
Phổ Đạo khai sáng tâm.
Thiên chân ai cũng có, chỉ vì bị che phủ. Người hành Đạo từ từ sẽ khai sáng nó ra. Khi chơn tâm hiển lộ giữa không trung, thì không còn mê muội.
Một câu pháp chánh ngôn
Sẽ soi thấu lòng người.
Một lời nói pháp chánh ngôn, lấy Diệu Quang Minh của Phật chiếu vào, thì vạn sự trong tâm đều hiện rõ, thiện ác phơi bày ra trước mắt. Lúc đó dùng trực giác huệ căn mà soi tỏ giùm cho họ tự thấy, tự hành, tự ngộ.
Thiện duyên bày trước mắt
Ngộ tánh do người hành.
Việc giải thoát là việc đạo đức, việc lành. Các phương tiện đều có sẵn, chỉ cần người đem tâm lành của mình đi tu Đạo, hành Đạo. Còn học Đạo là tuỳ theo ngộ tánh của chính mình mau hay chậm mà phát huệ, chứ không định vào thời gian tu lâu hay mới tu.
Tu lâu ngộ tánh chưa minh
Ấy là căn thiện của mình chưa sanh.
Tu cả nửa kiếp người, hành cả nửa đời người, mà còn đầy ấp chúng sanh tánh. Ánh sáng chưa khai, tâm linh chưa giác. Đó là do kiếp trước mình chưa trồng hoặc chưa gieo giống lành xuống, nên kiếp nầy ngâm hoài trong ao pháp của Phật vẫn không sanh được Phật Tánh. Vậy thì kiếp này mình nên lập chí phò Đạo, làm phước, học tập từ bi, để gầy giống cho kiếp tới.
Còn người mới nói đã ngộ, mới học đã đạt, người nầy: Một là họ từ Trời sai xuống để cứu đời; hai là Tiên Phật đội lớp nhân sanh để hành Đạo; ba là các vị Thánh Hiền đạo đức ra đời để học Đạo, đạt Đạo rồi hành Đạo.
Tu không thể ngó hình tướng bên ngoài
Lấy huệ căn soi các nhân duyên hiện rõ.
Tu không thể ngó vào người văn hay chữ tốt, các hạng thiện trí thức, hay các hàng Đạo Giáo, giáo sĩ. Mà hãy nên lấy tâm huệ để xét các việc làm của người, như vậy mới thấu hiểu được chân bản tánh nguồn cội.
(Hết trang 85.)
xin cảm ơn admin. xin được thỉnh kinh cõi không thời gian
(Tiếp theo trang 72.)
Trời Đất thâu vào tâm
Tiên Phật hiệp vào tánh.
Trời Đất tuy rộng lớn, người đạt Đạo thâu lại dễ dàng. Tánh Đạo tròn đầy, Tiên Phật linh ứng giúp đỡ.
Trên cân đẩu vân thâu đường
Dưới dùng độn giáp thâu đất.
Thần Quang Diệu Tướng qua lại Thiên Không dễ dàng, nhanh hơn đằng vân thường. Còn muốn thâu đường đất, phải thông độn giáp.
Đi trong Tam Giới bằng pháp
Định trong Tam Giới bằng tâm.
Dùng pháp thân để phân thân đi làm việc. Lấy giới định huệ để học Đạo không ngừng. Chuyển thức học mãi không hết.
Pháp hiệp Nhất đạt thanh
Đạo hườn Vô hiệp huyền
Tu luyện chơn tâm hoà cùng Đại Thể, thì đạt thanh nhẹ. Chơn Đạo về Không, thì ra khỏi Tam Giới, về Hư Không Đại Định rồi vậy.
Nhân thân nan đắc
Phật Pháp nan văn.
Có được thân làm người thì đã khó - bảy trăm ngàn năm tu luyện. Vậy mình có thân, có thiện duyên gặp thời kỳ minh sư giảng pháp là đã đi được hai đoạn đường rồi.
Thiện duyên nan ngộ
Xứ Phật khó về.
Nay gặp lại trần gian, cùng truy, cùng luyện, và đang hành pháp tu thân. Vậy mình đã đi được ba phần rưỡi đoạn đường rồi, còn sợ gì không đạt mà lo.
Thiên Lý trước mắt
Quy tâm thì tới.
Thiên Đàng trong tâm. Mở ra thì tới. Không xa.
Chơn Đạo Vô Hình
Chơn Phật Vô Tướng.
Hư Không là lý Vô Hình, người đạt Đạo cũng Vô Tướng. 'Không' là Thầy của Trời Đất và nhân loại. 'Có' là Cha Mẹ của chúng sanh.
Đạo Sĩ tu tâm
Học Sĩ tu thân.
Người Đạo Sĩ luyện tâm, tu từ bên trong ra. Còn người Nhân Sĩ tu thân, là rèn luyện ý chí đạo đức, sống thanh liêm hành Đạo.
Nhân học Phật tu thân
Tiên học Đạo tu nhân.
Người học Đạo để rèn tâm thân. Sau đó mới tu Tiên Đạo, tu nhân luyện Đạo.
Đạo Gia gặp Đạo thì tu
Tiên Gia gặp Đạo thì luyện.
Người tu gặp được Đạo thì tu bổ sửa chửa cho mình toàn thiện.
Còn Tiên Gia gặp Đạo thì lập đảnh an lư, tu tánh luyện mạng cho thành Kim Đơn, đắc pháp.
Phật tu tại điền
Tiên tu sơn mạch.
Phật tu đạo đức, nên vun xới phúc điền.
Tiên tu tánh mạng, nên cần chỗ địa linh nhân kiệt cho thích hợp.
Thánh tu tại thị
Nhân tu tại tâm.
Thánh Đạo phổ bá ở thành thị cho bậc học sĩ đồng theo đó mà rèn ý chí đạo đức. Còn nhân tu ở chỗ độ lượng, nhân hoà là đủ.
Huệ khai tầm chơn giác
Đạo tịnh kiến Như Lai
Giới Định Huệ khai thông, chơn giác tự hiệp về.
Đạo Gia tâm đạt thanh tịnh, thì thấy được Phật Quang hội tụ.
Tam Hoa thường trụ đảnh
Ngũ Khí được triều nguyên.
Tinh Khí Thần hiệp một, thường ở Hà Đào Thành, giao tiếp với Thiên Không, để thanh lọc và chuyển tiếp khí linh ra vào Tam Giới. Còn Ngũ Khí hoá thành đạo hào quang ngũ sắc, mà quy Không để thành Toà Pháp Bảo Liên Hoa Tâm.
Nhất khí Đạo thâu viên
Tâm thanh cầm chưởng pháp.
Thời kỳ nầy Thượng Đế và Phật Mẫu ban ân huệ cho các Linh Căn. Người tu hiền đắc pháp sẽ được Thượng Đế và Phật Mẫu triệu về phong thưởng đào Tiên và quả vị Kim Tiên Như Lai. Rồi được Tam Giới Cộng Đồng hướng độ mở cơ phổ pháp cứu đời.
(Hết trang 75.)
(Tiếp đầu trang 62.)
Lời pháp tuy khó hiểu
Kẻ ngộ sẽ thông suốt.
Thuyết pháp là để lập tâm tầm Chơn Căn, và đốn giáo cho người có giống Bồ Đề được nhuần gội Thiên Ân. Tự nó sẽ thông suốt lời lành để theo thiên chân cảm tính mà tu học.
Cảm ứng nếu có giống
Tự nó sẽ lập ngôn.
Xưa kia Lục Tổ Huệ Năng chỉ nghe có hai câu thuyết pháp mà tỏ ngộ:
Ưng vô sở trụ
Nhi sanh kỳ tâm
Người nghe pháp hoài mà chưa tỏ ngộ, là loại giống bị khô cằn. Hy vọng là mọc được một ngọn đuốc tinh thần để khỏi hoài công.
Đạo giáo truy nguồn cội
Pháp thí tầm căn gốc.
Trăm con sông đều quy về biển
Ngàn mối Đạo đều tiến về Trời
Phân chia do bởi con người
Tâm mà tầm được Đạo Trời mới nên.
Thuyết pháp giảng kinh là tầm người có giống Bồ Đề, hầu khai sáng trí tuệ, giúp cho nó trở lại bổn lai diện mục của chính nó.
Tuy pháp lý hửu truyền tâm đốn
Hỏi cho ra nơi chốn Huyền Hoàng
Tầm minh sư trao gậy Kim Cang
Lái thuyền pháp quy lai Phật Quốc.
Nghe chim hót rừng xanh núi vắng
Lòng người tu lập chí chán đời
Sống thanh bình tu dưỡng không lời
Tầm cơ pháp cứu mình tỉnh thức.
Tiếc chi cảnh sáng chiều quần quật
Ôm mộng trần luân chuyển thai sinh
Thoát ra cho khỏi mới vinh
Khang trang hơn khách Thất Tình đeo mang.
Giấc Nam Kha danh tình biển dục
Suốt đời mê Lục Dục đưa vào
Ai người có giống thanh cao
Tự mình dứt khoát bước vào tu Tiên.
Ai là giống Tây Phương thọ ký
Ai là người chơn lý Trời sanh
Đây nguồn mưa pháp sương lành
Tưới cho ngọc mát quy thanh nhẹ nhàng.
Điển cảm ứng lời vàng tiếng ngọc
Đạo truy tâm nguồn gốc Bồ Đề
Khử cho hết các mùi mê
Phật tâm hiển lộ Bồ Đề quy căn.
Giữa đêm thanh nhìn trăng tỏ rạng
Rồi hồn linh làm bạn Tiên Gia
Chu du thiên lý gần xa
Học kinh Bạch Tự hiệp nhà Vô Vi.
Tâm mê bởi nghìn đời u tối
Luyện pháp môn sẽ hội điển lành
Ngày ngày khử trược lưu thanh
Tự nhiên tỏ rạng trong lành Căn Thiên.
Bồ Đề bổn vô phiền vô luỵ
Tâm vô vi không bị nhiễm ô
Mỗi ngày pháp thuỷ tưới vô
Sanh ra giống Phật cơ đồ phục hưng.
Cây đại thọ sáng bừng ánh Đạo
Gốc Bồ Đề Linh Bảo hiện ra
Pháp môn chánh đẳng chánh toà
Quang minh Phật Quốc độ cho người đời.
Kinh Vô Tự không lời, điển giải
Có tu thì trở lại nguồn xưa
Đây lời chơn lý Đại Thừa
Cho người khai ngộ giải mưa thế trần.
Tu thiền định tầm căn quy tánh
Ai nghe kinh mà ánh sáng loà
Ấy là cội gốc Đại Thừa
Học cơ Bí Pháp mới vừa Đại Căn.
Điển pháp hoá văn
Luận văn kiến tánh.
Điển là lý siêu hình, mượn qua văn tự để viết thành văn ngôn điển giới. Nhưng mục đích là luyện Đạo kiến tánh thành Phật.
Tâm kính khai mở
Hồi quang phản chiếu.
Minh Cảnh Đài khai mở, thì người Đạo nhìn soi vào đâu thì tỏ ngộ tới đó.
Nhất lý thông
Vạn lý minh.
Hiệp được Một với Đại Thiên Thế Giới, thì vạn sự từ đời đến Đạo minh luận rõ ràng.
Kiến tánh thành Đạo
Đốn pháp gặp tánh.
Tỏ được thiên chân, Đạo được thành đạt. Cũng nhờ các bậc minh sư giảng pháp đốn ngộ, mà hồi quang chơn tỉnh, rồi theo đó mà tu hành mới đạt kết quả.
Vô lượng Hà Sa
Tựu hội chơn giác.
Mỗi lỗ chân lông sẽ phát ra vô số Hà Sa. Cho đến khi nó kết lại được rồi, là thành Xá Huệ Quốc.
Linh Sơn hội thượng Phật
Pháp thí lập văn ngôn.
Tuệ nhãn mở ra thì nhìn thấu pháp giới trong tiểu nhân thân, thành một hội Linh Sơn. Từ đó Chủ Nhân Ông lập văn, thí ngôn, thuyết pháp, cho đồ chúng tu học.
Phật tức chơn tâm
Tâm tức viên giác.
'Phật tức Tâm, Tâm tức Phật' là ở chỗ viên mãn, viên giác, thông suốt cội nguồn, tầm đường giải thoát.
Phật đáo Linh Sơn
Tiên qua Bỉ Ngạn.
Tu đến ngày Phật hội an trụ ở trung tâm bộ đầu, giảng pháp cho các giới đồng hưởng Chơn Quang của Phật.
Còn phần Vía thì về Bồng Lai Tiên Cảnh rồi hiệp nhất cùng Kim Tiên Như Lai.
Ta là Phật đã thành
Chúng sanh là Phật sẽ thành.
Ý nói, Chủ Nhân Ông đã đạt Đạo. Còn chúng sanh và các vị Tỳ Kheo cũng sắp thành Đạo. Đó là ý nói trong Tiểu Xá Huệ Quốc, chứ không nói ra ngoài nhân gian được câu này.
Thiên Tâm Thiên Nhãn
Đồng cảm đồng ứng.
Tâm và nhãn hiệp làm một, sanh ra diệu tướng Phật Quang. Nó cảm cũng đồng, mà ứng biến cũng theo linh giác để học tập tu luyện.
Pháp kiến Như Lai
Phật khai Thân Pháp.
Luyện pháp từ con người, rồi xuất được Hồn ra đi học Đạo, rồi luyện sanh Thánh Thai Kim Tiên Như Lai. Đó là pháp kiến tánh Như Lai.
Còn khi đạt Đạo rồi, thì Thân Pháp sẽ hoá thân đi độ Chơn Căn trở về nguồn cội. Để:
Quy tâm luyện mệnh
Quy tánh luyện Đạo.
Tâm giao hội mệnh Đạo sanh
Tâm tròn sáng Đạo Căn tỏ ngộ.
Không ngộ thì mê
Ngộ rồi thì giác.
Trước, chưa nghe pháp, chưa học kinh giảng, thì còn u tối. Khi nghe qua kinh giảng, trí tuệ mở ra, như nhớ như thương, như tầm pháp lý. Đó là giống Bồ Đề đã bắt được mưa pháp mà mọc rồi vậy.
Phiền muộn rửa sạch
Nghiệp chướng tự tiêu.
Ánh sáng hội về, vui lòng mát dạ. Nên các phiền toái, nghỉ bậy, tự nó lánh xa, thân an tâm sáng.
Ba kiếp nghiệp chướng
Tự biết khất lại.
Nghiệp chướng trong ba kiếp cứ đến khảo đảo. Vạn sự chưa rồi, mà lòng thì muốn tu. Nên lập Thiên Bàn xin với Thượng Đế, Cửu Huyền Thất Tổ: 'Cho con khất lại, sau này con tu hành viên mãn, con sẽ hồi hướng công đức đó lại để trả quả nghiệp.'
Thiên Lý truyền tâm
Thiên Cơ tỏ ngộ.
'Ứng để luyện Đạo, Cảm để hành độ.'
Mỗi giờ đều hiển lộ Thiên Cơ để người Đạo biết đó mà làm cho hiệp Thiên Lý.
Lập Đạo thâu truyền pháp
Nhập định thâu khí linh.
Thế Thiên Hành Đạo, giảng pháp truyền nhân, là việc tự nhiên. Nhưng cần phải có thời gian Nhập Định Vào Thất để lên lớp cho mình nữa.
Người cao một cấp
Ta luyện ba cấp.
Mỗi người học Đạo sáng tâm, mỗi ngày họ được mở mang từng giai đoạn. Còn người truyền pháp phải tu thêm gấp ba lần để có cơ hội phổ truyền cao kiến của Phật.
Đạo đức tầm nhân
Hiền triết trong nhân.
Đạo đức thường hợp với người đạo đức. Minh xa hiểu gần là bậc hiền triết trong nhân gian đó vậy.
Tiến đức hồi quang
Tỉnh Đạo hồi tâm.
Tu phước, tu huệ, tu phương tiện, ai mà biết đem ba việc này bố thí, thì nghiệp chướng sớm tiêu trừ, Đạo quả sớm thành đạt.
Lòng thành Phật độ
Tâm thành Đạo đạt.
Phật tức tâm. Người thành lòng là hiệp ý với Phật, tức được độ. Còn đi tu thì phải thành tâm, vì tâm lành đạt quả lớn.
Cầu Đạo lập tâm
Học Đạo lập ngôn.
Cầu Đạo tu thiền, luyện tâm theo Trời Phật.Nhưng khi học vào hàng đạo đức, thì không nên dùng các văn tự cẩu thả mà làm tổn đức của mình.
Xưa chưa học Phật thì mê
Nay học được Phật thì giác.
Nên tỉnh mình và giác người để cùng tu Đạo.
Tâm đầy thâu nhật nguyệt
Tánh tròn khai huyền pháp.
Tâm luyện tới mức đầy ấp linh khí là chứa cả Âm Dương vào trong đó. Vì:
Tánh ngộ tròn đầy
Thần thông tự về.
Thiên Mã hiệp ý Trời
Bạch Tượng sạch thanh khí.
Thấy cỡi Thiên Mã, là tâm Đạo hiệp làm một với ý Trời.
Thấy Bạch Tượng là biết trong người Âm Dương thuần, tinh khí chuyển thành linh khí.
Quá Ngũ Đài Vân
Lục Căn thanh tịnh.
Ngũ khí hiệp lại thành Đài Mây, kết tinh qua lại, thì Lục Căn quy phục Chủ Nhân Ông, mà làm việc cho chủ.
Vạn linh hội tựu
Chơn Linh phổ truyền.
Độ người và độ cho vạn vật sinh linh. Truyền tâm phổ kinh, thời thời khai ngộ.
(Hết trang 71.)
càng đọc càng sảng khoái , admin post lên hết đi, hoan hỷ, hoan hỷ.
(Tiếp đầu trang 56.)
Còn khí trọng trược ngưng kết lại thành mảnh đất gọi là phúc điền tụ hội ở cõi Trời của người tu.
Còn ánh sáng, mình ngồi thiền mà thấy được, đó là linh khí Hạo Nhiên.
Còn vật tròn sáng có lúc thay màu đổi sắc, đó là viên ngọc Xá Lợi, gọi là Linh Tánh của người tu. Nó nhỏ như viên kim cương, ra vào lui tới với mình. Còn lúc mình làm việc, là nó về lại ngôi Thái Cực mà tu dưỡng linh khí Tiên Thiên.
Thiền Định soi tâm
Đạt Đạo quy căn.
Tập trung ngó ở giữa hai chân mày, là soi tâm. Khi đã ngộ được, linh hồn xuất ra học Đạo. Đó là:
Phục Hư tầm linh
Chơn Căn hiển Đạo.
Thiền giác học Đạo
Minh huệ luyện Đạo.
Người tu thiền có giác có mê.
Thiền giác là:
Tầm được điều hay
Bỏ điều ô tạp
Đạo mình mình học
Đạo người người tỉnh.
Thiền mê là:
Ôm pháp chấp tâm
Soi hoài không sáng
Vì tâm ô nhiễm
Nên thiền chưa ngộ.
Đứng trong hoàn cảnh nầy, có tu suốt đời cũng chỉ được chút phúc hư lậu của thế gian. Khi chết, làm Sơn Thần, Thổ Địa, mà trông coi ngôi tự. Vì:
Lòng tham chưa dứt
Giải thoát khó về.
Vạn vật trên đời là Không. Cho đến thân mình cũng do Tứ Giả ngưng kết. Tại sao không mượn nó để tu chơn, quy Tiên, đạt Đạo? Đã có lòng tu giải thoát, thì ôm nhân quả của thế gian để làm gì? Ôm hình thanh sắc tướng nhân nghĩa của đời làm chi cho nặng nghiệp chướng của kẻ tầm đường đi về giải thoát?
Đạo ngộ nhờ giải
Người ngộ nhờ thoát.
Tu đến đạt ngộ tánh, Thiên Lý kéo nhau về, mộng trần tan biến, tức là tự giải nghiệp. Mỗi ngày gia tăng công phu cho sáng tròn đầy, hồn linh được tự ly gia cắt ái, tự giải thoát.
Thả lỏng lúc tỏ sáng
Kềm tâm lúc huyền tối.
Ánh sáng càng hội tụ, nghiệp chướng từ nhiều kiếp tự tan rã. Thả lỏng theo Thiên Lý, tự do nó phát khởi.
Lúc độc tố sanh ra, tâm tự nhiên huyền tối. Nên kềm tâm trong ngày giao tiếp không được xuôi thuận. Nếu không sẽ sanh ra chướng khí xung thiên.
Thiên Không thường trụ sáng
Mát khắp cả châu thân.
Ánh sáng càng gia tăng kết tụ, thì thanh điển kéo nhau về toả trên bộ đầu mát lạnh, và cho tới toàn thân mát lạnh. Còn ớt lạnh, nghe châm chít các lỗ chân lông, và không có ánh sáng, đó là tà khí, nên xả thiền đi ngủ.
Thiên Xích được khai mở
Nghe chấn động Hư Không
Luồng điển tâm mở ra càng cao, thì càng nghe luồng điển của cõi Hư Vô qua lại ở trên Thiên Không tới lui thăm viến người tu thiền. Hoặc nghe điển kêu sôi động ở trên bộ đầu suốt ngày đêm, đó là điển giới giao cảm cùng Thiên Không mà tạo ra tiếng kêu ró ré, 'é é.'
Nhịp tim dời về tâm
Nhịp tim hội ly tâm.
Tu một thời gian bộ đầu khai mở, nhịp tim dời về trung tâm bộ đầu mà nhịp một thời gian, rồi theo luồng điển rút ra khỏi bộ đầu tức là ly tâm học Đạo.
Tâm rời tâm ly gia
Hồn rời xác cắt ái.
Nhịp tâm là lý vô hình, khi nó tiếp giao với Thiên Không học Đạo, là ly gia. Hồn rời bản thể đi về Thiên Không học Đạo, là cắt ái.
Lòng dục không sanh
Tâm đạt định huệ.
Mỗi mỗi đều an tịnh vô vi, là lòng dục không sanh, ma chướng quy Đạo, thì trí định huệ tự hiệp nhau về.
Thường Chuyển được quang minh
Linh khí được kết tụ.
Pháp Luân Thường Chuyển mà ánh sáng hội về, là người có giống Bồ Đề. Linh khí được hội tụ thì Thiên Lý dạy Chơn Thân cảm ứng tự học.
Nghe thấy đều quy tâm
Học hiểu đều quy tâm.
Âm Ba Đại Hồn dạy dỗ ở trong tâm. Thấy biết cũng ở trong tâm. Càng soi càng hiểu rõ vị lai quá khứ, diện mục Chơn Như.
Thiên Lý quy tâm
Đạo Học quy tâm.
Đắc Nhất thông tỏ nguồn cội Hư Vô.
Quy Tâm tri hết chơn thể Thiên Địa.
Linh nhờ tánh hiệp Đạo
Huệ nhờ tánh hiệp nguồn.
Tâm hiệp làm một với Đạo, thì mỗi mỗi đều linh.
Tánh tròn đầy, huệ sáng suốt, là hiệp vào Chơn Đạo.
Tâm không thiện không ác
Đó là tâm chí thiện.
Mới tu làm thiện để diệt trừ điều ác cho Linh Tánh được giải nghiệp, và các chướng ngăn duyên Đạo. Khi hiệp được Thiên Lý, dù có làm điều thiện nhưng không còn cho là mình làm. Cứ để cho theo thế tự nhiên mà hành độ thông thả. Có như vậy mới là bậc giác ngộ hoàn toàn.
Hửu tình gieo giống xuống
Mưa pháp tự khai hoa.
Hoằng pháp độ tha, kết duyên gieo giống, là việc của người Đạo Gia phải làm. Còn khi người có giống Bồ Đề trong tâm, thì nó sẽ phát khởi việc thiện, và tự lo tu tập, lập đức cứu đời. Tất cả thể hiện qua hành động tức khắc.
Vô tình không có giống
Mưa pháp vẫn không sinh.
Nếu người nghe pháp hoài mà chưa có ý niệm thiện lành để tu hành phát khởi, đó là chỗ không có giống. Người hành pháp không nên bắt cầu, tưới nước vào chỗ rừng hoang tàn mà uổng công phí sức.
Còn có loại giống cằn sắp thối, cũng nghe pháp tỏ ngộ phút đầu. Nhưng ngâm mình hoài trong ao pháp cả đời người mà không sanh được ngọn đuốc Bồ Đề, mà lại còn ung thối các loại giống tốt trồng chung.
(Hết trang 61.)
(Tiếp đầu trang 50.)
Giáo thì phải dưỡng
Dạy thì phải dỗ.
Cây khô không uốn, tuỳ nó dưỡng phước, tuỳ nó tu bổ.
Cây tươi nên uốn, cho nó thẳng Đạo, thành bậc minh sư, chân nhân, để thay con đi phổ hoá. Lúc nó mới tập giảng kinh thuyết pháp, phải gặp nghịch lực để nó tăng trưởng, xuất trí định huệ. Nếu nó làm được, công đức vô lượng. Vì nó là cái đài gương của Phật Pháp cho mọi người soi chung. Lúc còn yếu Đạo, con nên an ủi, dạy dỗ tâm linh, khoa học siêu hình cho nó tập luyện, rồi cho nó tu chính mà đi hành độ tiếp tục.
Hồng phúc Trời ban
Đạo linh con phổ.
Công năng tu luyện của các hàng môn đệ, khi lên đây có Thầy và Tam Giáo Toà, Quần Tiên, Chư Phật ân độ.
Còn khai mở khiếu thiêng, Thầy nhờ con Điểm Đạo cho hàng môn đệ, mở đường Thiên Xích, để hiệp với Thiên Không cùng Đạo Trung Dung mà tiến giải.
Phật Kinh không có trang cuối
Tu học không bao giờ hết.
Trong các cuốn Phật Kinh không có đoạn kết thúc. Ý nói lên:
Phật Pháp vô biên
Đạo Học vô hạn.
Cho nên Trời không dạy xa, Phật không chấp văn tự. Mỗi mỗi đều dạy người học Đạo quay vào trong, đi tìm cái lương tâm độ lượng đạo đức của chính mình. Khi tìm được nó, thì mới tu dưỡng cho thuần lương chí thiện. Rồi nhờ sự linh diệu của nó có sẵn mà nó đi tìm cái thiên chân cảm ứng mà hiệp cùng Tam Giới, để học tập cái Khoa Học Huyền Bí Phật Pháp. Từ đó nó mới phát tâm xả bỏ Thất Tình Lục Dục, ngày đêm vui với cái Thiên Lý Vô Vi.
Tâm ứng Thần linh
Soi đâu tỏ đó.
Một lời trí tuệ ban ra, Trời Phật Tiên Thánh Thần linh ứng. Chứ không còn lời lẽ của người phàm tục.
Nhờ vậy nhìn đâu thấy đó mà dẫn độ nhân sanh, khai quang Điểm Đạo là vậy.
Nguồn Đạo vô biên
Suối Đạo thanh ngọt.
Pháp thuỷ càng ban, càng vô cùng.
Lời Đạo càng nghe, càng ngọt thắm.
Dạy Đạo dùng tâm pháp
Hướng Đạo bằng trí tuệ.
Tâm nhờ duyên mà tỏ ngộ
Đạo nhờ tâm pháp dẫn độ.
Có như vậy mới gọi là hàng đạo đức. Và mới thuận theo dòng suối Đạo, mà lưu hành khai mở trí tuệ, để gieo giảng giống Phật, ban nguồn tâm pháp.
Nhiên Đăng chiếu tâm mệnh
Như Lai hoá hình thể.
Ánh sáng Phật Quang chiếu soi pháp giới Hư Linh, truy cố nghinh tân, thấu rõ nguồn gốc của các sự vật.
Còn Xá Lợi Diệu Quang do tâm pháp Như Lai chuyển thế mà tạo thành hình tướng Chơn Dương Chi Khí, để ra vào các cõi thanh diệu.
Pháp duy tâm Pháp sanh
Đạo duy tâm Đạo trưởng.
Pháp hiệp được chơn lý, Pháp hoá Thân Pháp.
Đạo hiệp được Đạo là người bắt đầu trưởng thành.
Dạy Đạo bằng không lời
Hướng dẫn bằng cảm ứng.
Mặt trời mọc cho vạn sự đi theo công việc của mọi người tuần tự qua ngày. Cho họ biết sáng thì phải đi làm việc, chớ không réo gọi, mà mọi người 'đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu.' Nhưng khi lặn xuống, mỗi người theo đó mà yên nghỉ. 'Trời chiều khuất bóng, vạn vật tự yên.'
Con người tu là đồng cái lý sáng suốt của Trời Đất, để hướng độ cho thông suốt cái Đạo Căn mà làm theo mệnh Trời.
Còn đồng cái tình, hiệp cái ý với chúng sanh, là tự tạo ra ma chướng nghiệp căn tức khắc. Nếu không hiểu thì tạo ra biết bao là phiền não loạn tưởng.
Đường Đạo độ nhân tâm
Hành Đạo không xu hướng.
Hướng Đạo cho nhân sanh là cầm cân công lý. Vì đời mà hành Đạo. Cho người thấu hiểu được luật tiến hoá của Vũ Trụ vận hành.
Không vì thân mà bao che
Không vì ghét mà huỷ bỏ.
Nếu đã sanh tâm này, cần nên sám hối. Vì mình là người có sứ mệnh Đạo trên mình, là người Thế Thiên Hành Độ, mà còn dung chứa Thất Tình Lục Dục, sanh ra chúng sanh tánh. Vậy chính mình đã phả lấp cái thiên chân rồi vậy.
Tham thiền minh Thiên Lý
Nhập định ngộ căn nguyên.
Đường Đạo là đường ở giữa tâm. Cho nên người càng thanh, càng thiên về Thiên Lý, thì minh tâm kiến tánh.
Ngộ Phật ở Hư Không để được dạy mật pháp cho. Rồi tham thiền nhập định, thì mới thấu rõ được vị lai, quá khứ, hiện tại. Rồi tự mình đốn ngộ mình bằng cách lập tâm tu luyện để biết nguyên căn, nguồn gốc của linh hồn.
Đạo thanh nhờ Tham Thiền
Huệ phát nhờ Nhập Định.
Pháp Luân Thường Chuyển và Tham Thiền được nhiều, thì mức lưu thanh khử trược được gia tăng, và khí Hạo Nhiên từ đó được thâu hút vào bộ óc, và bộ óc cung cấp cho Ngũ tạng. Mỗi thời thiền thì thanh khí được triều lưu qua lại trong bản thể được nhẹ nhàng. Đạo Căn nhờ đó mới phát sáng. Khi đã sáng tâm, thì ngồi thiền được dài hạn. Rồi từ từ Linh Tánh, Linh Tâm xuất ra học Đạo ở cõi Tiên Thiên Nhất Khí. Từ đó:
Âm ngưng kết Thánh Thai
Dương ra vào học Đạo.
Kết Thánh Thai không phải ở trong thân, cũng không phải ở trong óc, cũng chẳng phải trên bộ đầu. Xưa nay kinh điển giải đều sai cả. Vì vậy người tu không biết lấy vị trí nào để kết thai lập đảnh.
Người bàn Đạo chấp lời văn
Kẻ tu Đạo chưa thông suốt.
Ở trong hai khí Thuần Âm Thuần Dương của Trời Đất, trong bầu thanh quang Thái Cực, một nửa bên trái Thuần Dương, một nữa bên phải Thuần Âm, chánh giữa có một gạch đứng. Gạch đứng đó là đường Trung Đạo đối diện Âm Dương, qua lại dìu tiến, xuống lên thông nhất.
Cho nên, người tu tham thiền nhập định, thì ba khí trong người được thông. Lấy Tinh bổ Khí, lấy Khí bổ Thần, cho Thần Hồn về hiệp Nhất cùng Đạo. Từ đó một giờ thiền là Linh Tâm, Linh Tánh theo khí đó xuống lên học Đạo. Và từ đó thanh khí phóng lên Trời, kết Thánh Thai ở trong bầu Linh Thể của Đạo.
(Hết trang 55.)
(Tiếp đầu trang 46)
Trí tuệ là cây thước pháp giới đo lường đạo đức, khai mở linh tâm. Mỗi ngày gia công tu luyện cho:
Đức linh huyền biến
Đạo linh đại diện.
Tánh Phật đi đến đâu đại diện Trời Phật đến đó. Cho nên nói 'Thế Thiên Hành Đạo.'
Luật cầm công lý
Đạo cầm Thiên Chỉ.
Thông suốt được luật của Đạo, thì tuỳ căn mà độ, tuỳ thức mà ban, tuỳ hành mà ngộ.
'Huệ Mạng Chỉ Thiên' là cải thiện đời sống cho nhân sanh hưởng hồng phúc của Thượng Đế.
Nhân cầu tuỳ cung
Nhân hoà tuỳ duyên.
Sự thỉnh cầu của quần chúng muôn nơi, tuỳ phước huệ của họ nhiều ít, mà chuyển Chư Thần cung cấp ban phát. Còn hoà hiệp với đời sống trong lúc giảng kinh thuyết pháp hoá độ quần sanh cũng tuỳ duyên của các địa phương mà từ độ. Tuỳ theo phong tục, tập quán, tông giáo trước đây, mà khêu đèn trí tuệ cho họ.
Nhân tùng Đạo sanh
Nhân hiệp thạnh phát.
Nhiều người bằng lòng tu Đạo, đó là nơi trồng được giống lành. Ruộng phước từ đó được khai hoá. Từ một sanh ba, ba sanh thiên hạ, để đồng giác đồng tu, đồng hành, đồng giải thoát. Nơi đó là vườn lớn của Đại Đạo. Nên kiếm các loại linh chi, nhân sâm, trường niên thảo, linh chi thảo tử, mà trồng trong vườn phước đức đó, để lúc phong hàn mà nhờ nó đủ tánh dược Đạo Linh mà chăm sóc thiên hạ.
Hành Đạo tuỳ nhân
Thành Đạo tuỳ duyên.
Ai phát tâm tu cũng nhận vào hàng môn đệ của Thầy, rồi ban phát pháp lý giáo độ dạy dỗ ngày một dài hạn. Rồi xét thấy tuệ căn tỏ ngộ đến đâu, tuỳ đó mà con bổ khuyết cho tới chỗ đắc pháp, thành Đạo viên mãn.
Thiên Lý Thầy ban
Chơn Lý con giáo.
Trong Tam Giáo vận hành, Thầy ra cơ dẫn độ cho các vị Tiếp Dẫn Đạo Sư để từ độ các Chơn Căn quyết lòng học Đạo tu hành giải thoát. Thầy sẽ ban phát nối Đạo cho nó tiến hoá. Còn điều ngay, nẻo cong của pháp, nó chưa thông, con nên hướng dẫn hành độ cái bí mật khẩu khuyết chơn truyền cho hàng môn đệ. Rồi theo dõi cái Thiên Lý ứng cảm của hàng môn đệ, mà ban phát tiếp tục cái Đạo của Thầy cho hàng môn đệ thông suốt Đạo Luật của Vũ Trụ và bí mật của Vũ Trụ, để vào hiệp cùng Tam Giới mà tu dưỡng.
Chơn sư minh Đạo
Môn đệ mau thành.
Vì người thành Đạo ít tái sanh trong kiếp con người, nên xưa nay không mấy vị được hoàn toàn viên mãn.
Vì vậy mỗi Ngươn, Trời cho giáng sanh một vị Thầy của Vũ Trụ để đầu thai làm người phàm, rồi tu dưỡng thành chánh quả để lãnh mệnh Trời đi truyền bá cơ Đạo của Trời, và dẫn được vô số môn đệ về cõi siêu thoát và lập ra được một xã hội văn minh an lạc, Di Thiện Tối Lạc.
Bình quốc sanh văn
Chiến quốc sanh võ.
Tu Văn Phật là người mở trí tuệ, văn chương lưu loát, tao nhã, thanh ba, quốc hồn an tịnh.
- Văn Phật làm anh, phổ truyền giáo dạy.
- Võ Phật Tiên Đạo, phép tắc, bày binh bố trận, thiên la địa võng, canh giữ tuần tra, xuống lên Tam Giới.
Còn người tu dưỡng Huyền Công của Thầy dạy, là văn võ song toàn, Linh Bảo đầy đủ.
Luyện Đạo chủ tâm
Học Đạo duy tâm.
Người tu lấy tâm làm chủ, nên không bị Lục Tặc phỉnh dỗ, Thất Tình mua chuộc, nên đứng vững trong Trời Đất.
Còn học Đạo là nội khoa tâm lý, Khoa Học Vô Vi. Nên khi đạt được rồi, thì chí linh chí thiện.
Hành Đạo thế Thiên
Độ lượng cởi mở.
Con đi phổ hoá cho nhân tâm tu dưỡng, là thế Thầy giáo dục Thiên, Địa, Nhân, Tam Giáo vận hành. Cho nên, mỗi thời con thuyết pháp, có cả Thập Tam Thiên Thế Giới, Phật Tiên Thánh Thần, đồng hội tụ. Để từ độ hay học tập bổ ích cho các giới vô hình mới chuyển xuống cõi hửu tướng thế gian.
Con nên giải rõ chỗ khúc triết được mạch lạc, thông suốt, cho các giới đồng học trong cảm ứng.
Còn môn đệ có chỗ phạm giới, chưa minh, nên lấy hậu tình mà răn phạt nhẹ nhàng, cho hàng môn đệ cảm ân đức mà cải sửa tu dưỡng.
(Hết trang 49)
xin đạo hữu gửi giúp toàn bộ kinh sách đạo hữu có được của đức thầy vô danh thị, xin cho. hoan hỷ, hoan hỷ. Tuhungdhsp20015@gmail.com.
(Tiếp đầu trang 44)
Vô tướng hoà tâm
Đạo huyền hóa Đạo
Hườn đồng cải lão
Định giới hoá duyên.
Đến đây tuổi thọ gia tăng, linh hồn cải lão hườn đồng. Chơn Không luyện Đạo. Trong Đại Định Giới tuỳ cảm mà ứng để học tập cái thiện chân.
Đến cõi Vô Danh
Trong ngoài Vô Tướng.
Hình do nhân sanh ra
Tướng do nhân duyên kết.
Đến cõi Phi Phi Tưởng thì:
Hình tướng tự tan rã
Nhân duyên tự cháy tiêu
Hồng trần tự khô héo
Trí tuệ cũng tròn vo.
Luyện Không hiệp tướng
Tam Muội Chơn Hoả.
Đại Định lập tâm
Tam Muội Lập Thất.
Khi vào Đại Định, người học Đạo quyết lập chơn tâm phúc điền ở cõi Trời không không, trống trống nầy bằng linh khí để tụ thanh kết tịnh, mà sanh ra Xá Huệ Quốc. Vì muốn lập quốc ở Thiên Đàng cần nhiều thời gian Vào Nội Thất, lánh xa sự động loạn của thế gian để tu luyện cho thành chánh quả.
Hoả Đức năng tăng
Đạo Gia năng luyện.
Ánh sáng càng gia tăng, trí tuệ càng bừng phát. Đạo Lực mỗi ngày một thêm sáng, là Hoả Đức hiệp được với Hư Vô Chi Khí. Lúc nầy buông hết việc đời lẫn việc Đạo để cho:
Chân tâm trống trống
Chơn khí đầy đầy
Khai đường Thiên Xích
Đạp gió giỡn mây.
Hoả mệnh kết Thần
Linh khí kết Thể.
Thần Hoả càng đầy, đạo đức càng cao.
Linh khí càng kết, Chơn Quang đoàn tựu.
Tiến Đức linh tâm
Tiến Đạo huệ sáng.
(Hết trang 45.)
(Tiếp đầu trang 42.)
Đạo nghịch, đời thuận, dòng Thiên Lý
Ma không khảo, Đạo không đắc thành.
Người tu cần phải hiểu Đạo Lý nghịch chuyển, để mà thức giác hồi tâm, cải mê giác tánh.
Người đạt Đạo thanh, không muốn trược. Người đã đạt Đạo, hết muốn đi vào trong ô trược. Vì chính họ đã trả một giá quá đắt mới tỏ ngộ chơn lý. Vì vậy mà nhiều vị ẩn mình trong rừng thiêng nước độc để an nhiên, coi mộng trần như bọt biển, hồ hải, tang thương.
Chỉ có kẻ mê cho là của hồi môn nên cố giữ. Còn người đạt Đạo cho là nghiệp lực cám dỗ, biển ác khó rời. Còn kẻ mê kia chưa ra khỏi, nên còn bàn luận Đạo. Thật là ếch ở dưới đáy giếng mà so với trời cao đất rộng.
Huyền cơ hiển lộ
Cảm ứng với Trời.
Tu đến đây, mười phần người hành Đạo theo ý Trời mà hoàng hoá, theo nhân duyên mà từ độ. Không còn làm theo cá nhân mình, mà xuôi thuận với lòng Trời rồi vậy.
Nhất cảm, nhất ứng
Nhất linh, nhất chuyển.
Cõi Hư Linh tuy xa vạn dặm, đối với người đạt Đạo như ở trước mặt. Nên Linh Tâm cảm thì Đạo ứng. Khi cầu nguyện cho ai, là được phò trờ tức thì.
Thần hiệp Đạo thần thông
Pháp hiệp Đạo pháp biến.
Thần hiệp cùng Đạo là thông suốt.
Pháp hiệp cùng Đạo là pháp biến hoá.
Chơn Thần chơn
Chơn Không giải
Huyền Quang chơn
Chơn Mệnh Thể.
Đạo Không Tên nên làm thầy Tam Giới.
Đạo Chơn Không nên làm chủ Trời Đất.
Thần Quang sanh Diệu Tướng
Hiệp Đạo, Đạo hườn Vô.
Khi các lỗ chân lông phát quang, hiệp lại thành muôn triệu Hà Sa toả ra bao bọc thân thể của người tu. Khi Hà Sa kết lại thành Diệu Tướng, thì pháp thân thông suốt, Thiên Lý ra vào nhẹ nhàng, xuống lên thanh tịnh.
Còn khi Chơn Thần mình hiệp Đạo, sản được Kim Thân, thì Thần Quang Diệu Tướng hiệp với Kim Thân thành vòng Chơn Hoả Tam Muội để bảo vệ Kim Thân đi vào Đại Định.
(Hết trang 43.)
(Tiếp đầu trang 40.)
Người mở được Duy Thức Thứ Bảy là linh giác cảm ứng được vạn vật. Thấu hiểu được cảm tính ngôn từ, ứng đối đả thông, cho tới cây cỏ chim muông cầm thú.
Còn người khai được Mười Huệ, là tu luyện được vào hàng Đại Đại Giác. Được Thượng Đế xếp vào hàng Thiên Tôn là vậy.
Bảo Pháp Trời Phật tiếp
Đạo Học đạt Huyền Cơ.
Người luyện tập pháp môn, khi đã thành Đạo thì:
Đạo thành phép linh
Điều Thần khiển Thánh.
Tất cả các pháp của Trời Đất tự nhiên hiệp về.
Cho nên:
- Dùng tới pháp thuật là sai Thần.
- Dùng tới bửu bối là khiển Thánh.
Đạo truy tâm, Đạo thành, ấn linh.
Pháp truy tánh, Pháp đắc, Đạo linh.
Xưa nay có nhiều người tu, nhưng hầu hết không chịu ra sức luyện, hay gia công truy cứu kinh điển để khai mở trí tuệ.
Người thì sợ mất của cải, gia tài, vợ con, công danh, chức phận, nên đi theo Đạo bằng thể lưỡng hai. Không lui bước cho trống chỗ, không nhường bước cho người có tâm cầu tiến. Sợ theo Đạo, bỏ hết thì uổng. Nên đứng đó làm người có Đạo, chứ có chịu tu đâu mà đắc Đạo.
Vậy Đạo nói truy cái nhân tâm. Con người cầu học thì Đạo mới cung ứng cái linh diệu. Khi thành đạt, thì cho đến từng lời nói Quỷ Thần còn kỉnh, huống chi là đụng tới pháp lực.
Còn người hành pháp Phật, đừng sợ ma chướng, đừng sợ thử thách. Sai thì sửa, thiếu thì tu bổ.
Sanh ra ai cũng dại
Học sai để trưởng thành.
Không có vị chơn tu nào trước khi thành Đạo mà không bị éo le, ngang trái, ma chướng cám dỗ hành hạ. Đó là thử lửa của cộng nghiệp nhân sanh. Nhờ nó mà Đạo Gia thành Đạo.
Thuận đời thì Đạo ẩn
Nghịch đời thì Đạo sanh.
Thuận đời là ngược dòng của Đạo. Nghịch đời là đúng đường của Đạo.
(Hết trang 41.)
(Tiếp đầu trang 38.)
Căn nào quả nấy. Đó là tuỳ duyên mà dẫn độ; tuỳ sức học mà cho thêm; tuỳ giác ngộ mà dẫn tiếp.
Còn người học Đạo, thức đến đâu dạy đến đó, chứ không được phép dạy trước được.
Ăn no sanh tật
Đạo no sanh sắc.
Người có đủ thường hay làm biếng ỷ lại. Cái đó là thứ bế đọng. Nó trở thành tập quán cố chấp mà sanh ra chiến tranh.
Còn học Đạo mà vật chất quá đầy đủ thì sanh ra:
Quân tử cầu Đạo
Tiểu nhân cầu thực.
Người quân tử học Đạo, luyện tâm, quên mình với Đạo, mong đạt thành nhân mà hành Đạo trượng nghĩa. Nên quên việc nhàn cư, cầu danh hưởng lộc.
Còn người tiểu nhân, có bao nhiêu ôm lấy hết bấy nhiêu. Nên chôn mình trong biển dục, và cửa Địa Ngục cũng gần kề.
Biển Đạo thật vô biên
Người đạt dùng được cả.
Tâm đã hiệp Một với Đạo, thì Đạo là mình. Trời Đất mình còn đại diện, thì còn tìm ở đâu nữa?
Khí linh hoà nhịp thở
Ánh sáng tự kéo về.
Khí Đạo hiệp rồi, thì khí linh theo hơi thở mà vào trong pháp thể, nên thấy toả sáng. Nhắm mắt nhìn xuyên chín từng mây, xuyên qua các hình vật chất.
Tâm chuyển thần giao
Tánh tròn huệ thức.
Muốn đưa tâm đến đâu, thì Thần Thức mình đến đó. Khi tánh đã tròn đầy, thì Lục Căn thanh tịnh.
Linh giác làm việc
Tánh Đạo chuyển tiếp.
Muốn phân thân đi đâu, làm việc gì trong Trời Đất, thì Linh Tánh chỉ đạo cho Linh Giác thực hành.
Ra vào Sáu Cõi
Hiệp khí Hư Vô.
Ba Nhà Sáu Cõi là do huệ căn viên giác làm việc. Nhờ hiệp theo linh khí Hư Vô mà đi khắp Ba Ngàn Thế Giới không biết mỏi.
Trên học đa ngôn
Dưới khai mười huệ.
(Hết trang 39.)
(Tiếp đầu trang 36.)
Thiên Lý tâm Đạo chuyển
Thông suốt sự ứng biến.
Người đạt Đạo là Thiên Lý truyền tâm, soi đến đâu thì thông suốt đến đó. Vì vậy ít khi gặp trở ngại.
Hư Không là Thầy Tổ
Đạo Thông thấu kim cổ.
Lấy văn học sử mà soi thì còn xa không thể nào nhớ hết.
Lấy chơn tâm mà soi, thì tỏ ngộ được Đạo.
Điển giải thiên kinh pháp
Đạo chuyển vô biên giới.
'Đạt được pháp, thông vạn pháp.' Cho nên dùng điển hoá văn giải các pháp hửu vi rất dễ.
Còn Đạo đã hiệp Một rồi, thì kinh luận, phép tắc miễn bàn. Vì nó vô biên giới.
Xài hoài không hết
Ứng mãi càng huyền.
Người đạt Đạo khờ khờ như quê dốt, mà đụng tới chỗ nào là nó khui cả Vũ Trụ tuần hoàn Hư Vô. Cho nên linh ứng trong mỗi câu nói, trong các thời kinh, trong giờ thiền định.
Ánh sáng của Như Lai
Phá tan luồng chướng khí.
Pháp giới Hư Vô chiếu đến đâu là ở đó được linh ứng tức khắc. Tà khí phải dang xa.
Chơn Huệ đốn tâm mê
Pháp linh rửa chơn thức.
Một câu nói hay, giải được uất khí. Một luồng điển quang giải được nghiệp chướng.
Lúc đó chơn thức mới lộ hành, và làm việc đạo đức.
Thần sáng nhờ khai tâm
Pháp thông nhờ đốn ngộ.
Ngồi mãi mà tâm không sáng, tức là còn thiếu linh khí. Nên nhờ người đạt Đạo chuyển vào một ít, thì tự nhiên cảm thức được linh tâm.
Ôm pháp hành sai, mà không biết tiến lùi chơn giải. May có người đi trước nhìn thấu, nhắc nhở cho, và dẫn đi một giai đoạn thì mới thấy mình còn phải cần bổ khuyết nhiều nữa, để mong đạt Đạo.
Thiên Lý theo duyên
Đạo Lý tuỳ thức.
(Hết trang 37.)
(Tiếp đầu trang 34.)
Tập luyện đến đây là Chí Nhân. Vì tâm thân hiệp thành một với Đạo.
Vô danh hiệp Thiên Lý
Linh thể mở Huyền Cơ.
Mai danh ẩn tánh là thế ẩn của người tu ở trong đời, vì lòng quyết cầu giải thoát.
Còn cõi Trời không tên, vạn sự yên tịnh trong phi phi tưởng. Đến hiệp được khí linh ở Hư Vô Chi Khí, thì Đạo Lực mới có đủ sức phân thân đi khắp trong thiên hạ mà vẫn yên tịnh.
Pháp Phật không còn pháp
Đạo Trời không còn tên.
'Nhất bổn tán vạn thù, vạn thù quy nhất bổn.' Và chỉ hội lại ở ngôi Trung Đạo Thái Hư thanh tĩnh.
Còn đi tu luyện Tam Muội Chơn Hỏa, thì không còn dùng các pháp ở trần gian, để mà vào được Hư Linh Chi Khí. Các pháp của trần gian chỉ đi tới Trung Giới mà thôi. Tới đây Thầy mới dạy cho các Bí Pháp Tâm Truyền, rồi cảm ứng theo Thiên Lý mà vào trong linh thể. Đến đó còn phải nhập Đại Định để lập đảnh an lư, kết thai hiệp Đạo.
Kim Tiên Như Lai Hiệp
Âm Dương Thuần Quy Không.
Dương chuyển cho Đạo Huyền ra vào Sáu Cõi, lên xuống Ba Nhà, tới lui thông thả.
Âm kết các báu linh để xây thành phúc điền của người chơn tu ở trên Thiên Đàng.
Hư Không lập Quốc Hồn
Đạo chuyển thành Nước Phật.
Nơi đây là cõi Trời Không Không to lớn. Người tu tha hồ kết phúc điền của mình thành một Thiên Đàng Phật Quốc, để hồi hướng các Chơn Linh về đây tu dưỡng khí Hạo Nhiên.
Chánh tâm sanh diệu tướng
Chánh đức sanh phúc tướng.
Đạo sanh căn, căn hiệp Đạo, rồi sanh Pháp Thân. Người lành tâm sanh tướng phát. Còn lành Đạo sanh trí tuệ là vậy.
Bốn mùa một khí Xuân
Tám tiết một Linh Thể.
Cõi Thiên Đàng cao nhất đầy ấp khí Hạo Nhiên, tức Tiên Thiên Hư Vô Chi Khí. Cho nên bốn mùa chỉ một khí Xuân. Cỏ cây hoa trái đều linh ứng theo thể Đạo mà kết tụ.
(Hết trang 35.)
(Tiếp đầu trang 32)
Minh được Đạo như ngó mặt trời quang minh chánh giác.
Thông được Đạo nhờ trí tuệ viên dung ra vào Sáu Cõi.
Đạo thanh nhờ tịnh
Đạo chánh nhờ tâm.
Đạo càng thanh, người tu luyện trở nên an tịnh, không còn phiền não loạn tưởng. Nhờ vậy mới chánh trị được tâm linh, và cầu kinh học Phật bằng Chơn Linh thanh tịnh.
Minh đức tân dân
Minh Đạo tân tiến.
Người hiền đức là dân của xứ Phật, đó là văn minh tinh thần, tân trang Đạo Lý. Cho nên hoàn toàn Chơn Linh thiện mỹ.
Minh diệu quyền biến
Minh tâm Đạo chuyển.
Minh diệu quang của Phật thì quyền biến, ứng đáp vô ngại.
Minh tâm kiến tánh thì Đạo chuyển tâm, tâm hiệp Đạo.
Tâm thanh nhờ chơn pháp
Đạo tịnh hiệp Hư Không.
Đem tâm mà cầu Đạo, luyện tâm, thì tâm được thanh sáng, trí truệ được mở mang, cảm ứng được lành mạnh.
Còn ra công tham thiền nhập định càng nhiều, thì gom được khí Hạo Nhiên vào trong Chơn Thức. Rồi mỗi mỗi theo tiếng gọi của âm ba Đại Hồn mà tuần tự học tập cái Đạo thanh của Trời Phật, cái đức linh của Thiên Lý, mà thuần Dương bổ Âm, hoà trong Đại Thể.
Chơn Quang sanh Ngọc Phật
Xá Lợi sản Kim Tiên.
Đến đây khí Hư Vô đầy ấp trong ngoài. Chơn Quang tỏ sáng như vòng thái dương chiếu rọi.
Chơn tâm của người tu thiền định như Ngọc Phật Huyền Quang bủa khắp Hư Linh Chi Khí, nên ra vào tự tại, hiệp Một hườn Hư, nơi nơi không động.
Còn Xá Lợi Tử luyện thành một vị Kim Tiên. Khi Chơn Muội Tam Hoả hiệp thành, thì chí linh, chí thiện.
Phật gọi Thanh Tâm
Đạo gọi Thành Đạo.
(Hết trang 33)
(Tiếp đầu trang 29)
Người học Đạo muốn đem cái chơn lý mà ứng cảm lòng người. Người tu hành giải thoát học chỗ huyền cơ bí pháp, chơn giải chỗ Hư Vô. Tuy không văn tự ghi chép, mà đả thông mạch lý nhân tâm, mở đường Thiên Xích.
Còn tiểu tâm thì chấp văn tự, luận văn chương, khó thông được Đạo Học của Trời là vậy. Vì không có điển thì không thể giải được kinh điển của Hư Vô.
Đạo thanh rồng cọp chầu
Đức trọng Quỷ Thần kính.
Thanh tâm bày bóng thố
Đạo trọng hiệp vòng ô.
Ý nói, bộ đầu phát quang tạo thành một vòng hào quang thanh tịnh.
Người tu đến đây, Phật Tiên Thần Thánh Ma Quỷ đều phải kỉnh. Vì họ là người Chơn Đạo, Chánh Đức rồi vậy.
Quỷ kỉnh Thần kiêng
Hiệp nhất Khôn Kiền
Bộ đầu tỏ sáng
Thành đạo hào quang.
Sức mạnh của Đạo bằng sự yên tịnh để minh tâm.
Minh diệu của Đạo bằng sự yên sáng để kiến tánh.
Lấy đức để tịnh yên tạo thành sức mạnh của Đạo. Lấy Đạo thanh sáng mà hiệp Hư Linh thì huyền đồng với Đạo.
Đến giai đoạn này cần yên để Vào Thất dưỡng Đạo.
Khôn làm như dại
Mạnh làm như yếu
Biết làm như an
An làm như yên.
Khôn làm như dại là để trợ duyên trong lúc hành pháp.
Mạnh làm như yếu là để cầu tâm học tập không ngừng.
Biết làm như an là giả như người không biết Đạo để hồi sinh các Chơn Linh trở về nguồn tâm pháp của Đạo Gia.
An làm như yên là biết Đạo yên thân, tự nhiên hiệp Đạo.
Đạo thức nhờ tâm khai
Đạo đắc nhờ hiệp một.
Khi chơn tâm đã khai, thì các giáo pháp đều linh ứng hiệp vào nội tâm của người hành Đạo.
Nhờ hiệp Đạo mà đắc pháp. Hiểu Đạo khắp Hư Vô Tam Giới.
Hành độ đạo đức, đó là một con đường pháp môn, và cũng là một phương tiện đạo đức.
Có rèn luyện thì tâm Đạo mới được chánh đẳng, chánh giác, chánh ngôn, chánh hành. Còn phương tiện có trau dồi thì Đạo Căn mới sáng, để tỏ ngộ đường đi.
Nước mạnh nhờ lực
Sức mạnh nhờ giồi
Nhân mạnh nhờ đức
Trí mạnh nhờ thức.
Người tu cần thức Đạo để khai quang, mở nhãn.
Nhân đức càng mở rộng, tiếng hiền đồn xa. Hữu xạ tự nhiên hương.
Nhờ khổ ải để vượt qua, trí Đạo mới được khai mở tỏ sáng.
Nhờ Pháp Luân Thường Chuyển hiệp với pháp giới Thiên Không, tạo ra một luồng pháp thuỷ trợ duyên cho Đạo.
Đạo minh nhờ ngộ
Đạo giác nhờ thông.
(Hết trang 31).
(Tiếp đầu trang 26)
Con người ai ai cũng có tánh linh, nên học tập được minh mẫn. Ai cũng có Đạo Linh, đó là độ lượng của lương tâm kết duyên phát huệ.
Người mà tâm thức được quân bình, nhờ có trí tuệ và có độ lượng. Cho nên xử trí mọi việc theo lòng Trời, linh ứng được thời tiết, cỏ cây, phong võ, và hoá giải được các áng mây đen tối trong lòng người đau khổ.
Đó là Đạo thông suốt một lý, như ánh sáng mặt trời chiếu cho tất cả, không riêng kẻ thiện người ác, mà vạn linh đồng hưởng.
Trời không dạy một điều, không nói một lời, mà nhân loại, vạn vật tự ứng để xuôi thuận theo công việc của mình cho thích hợp.
Ứng biến vạn pháp, là đem cái sáng cùng tột để sáng cho chỗ tối cùng tận, để nơi nơi được tiếp nguồn ánh sáng của Trời bằng siêu nhiên, tự nhiên thanh nhẹ, và để cho người có linh tâm ứng cảm mà viết ra văn chương thơ phú.
Sức mạnh của Đạo ở chỗ thanh tịnh
Đạo đức mạnh nhất ở chỗ nhẫn nhịn.
Bởi vì cõi thanh tịnh là cõi hiệp nhất các mối Đạo. Nơi đó là Tổ Nguồn của các tôn giáo đương thời; là cõi sanh ra các nguồn Đạo Học; là Tổ Đường của nhân loại; lại là nhà lớn của Thần Thánh Tiên Phật.
Còn người học Đạo Từ Bi là nhờ sức nhẫn nhịn mà thành chánh quả. Bởi vì 'bá nhẫn thành kim thị thái hoà'.
Trong nhẫn ma chướng phủ vây
Ngoài kiềm phiền não loạn tưởng.
Sức mạnh của người tu là phải thắng mình trong mọi hoàn cảnh, mọi thử thách. Đó là tam hoả của nhân tâm thiêu đốt: hoả của đói lạnh hành hạ; thiên hoả của thời tiết bủa vây; hỏa của sắc tướng, thị phi trêu chọc.
Trong nhịn trị tâm ma
Ngoài nhẫn thâu Đạo Lớn.
Trong các pháp môn của Đạo Đức Kinh đều nhờ sự kiên nhẫn mà thắng được lòng mình, và đều nhờ sự nhịn nhục mà thành chánh quả.
Diệt được tâm ma
Hàng phục ngại chướng.
Định được, mỗi ngày càng gia tăng, thì trí tuệ mỗi ngày càng được minh mẫn. Tự nhiên xét thấu được chơn tâm. Tự nhiên tỏ ngộ giáo pháp theo cảm ứng của Đạo.
Nhịn lớn đạt Đạo Lớn
Nhẫn được đạo đức rộng.
Đến đây: Trí khai huệ trí tu
Đạo khai huệ Đạo giác.
Hồi quang phản chiếu là sức hút của Thiên Không cùng tâm lực hiệp lại, nên khai mở luồng trí tuệ vô cùng.
Trí tuệ càng giải rõ bao nhiêu, thì nội quán thông cảm để hoá giải bấy nhiêu.
Cho nên, người học Đạo không bao giờ rảnh rỗi, mỗi nhịp đập của chơn tâm hoà nhịp theo sự vận chuyển của Chơn Không, trí tuệ khai mở không ngừng nghỉ.
Thanh tâm chứa Đạo Lớn
Tịnh tánh chứa Đức Lớn.
Đạo Học là một biển kinh vô tự chơn giải. Càng học càng minh lý siêu nhiên. Càng tịnh càng kết thai lập đảnh.
Nhất động ứng vạn biến
Nhất tịnh thâu chơn lý.
(Hết trang 28)
(Tiếp đầu trang 24)
Hứng chí luận thơ văn
Tỉnh lòng bàn Đạo Học.
Xưa nay những bậc quân tử vì tình mà xả thân bảo quốc phò nguy, nhưng an lòng vui sống đơn giản. Ấy là họ đã thông suốt được Đạo Lý làm người, xuôi thuận theo mệnh Trời. Mỗi mỗi đều dung chứa đầy đủ thiên chân cảm tính, một lòng vì Đạo.
Sống thuận theo lòng Trời
Làm việc theo nguồn nước.
Vì vậy sự việc liêm chánh mới mọc lên. Đạo đức công bình được thực hiện trong mọi tầng lớp xã hội.
- Cho dân an hưởng, Thái Bình được thạnh trị dài lâu.
- Cho nhân tâm tu dưỡng cái Thiên Lý mà hiệp với lòng Trời.
- Cho hàng đạo đức theo cơ mà phổ hoá cái chơn thiện mỹ trong đời sống văn minh Phật Pháp.
Pháp thuỷ chứa hoài không dứt
Đạo đức ăn mãi không đầy.
Thuỷ Pháp là một nguồn Văn Phật minh triết từ Thiên Không, chuyển vào điển kinh để giải thành văn tự. Cho dù hàng đại giác cũng không đủ linh tâm để chứa hết pháp của Trời. Vì vậy mới còn tu mãi.
Còn đạo đức là món ăn tinh thần của nhân loại. Cho dù bậc quân tử hay Thánh Nhân vẫn còn thấy chỗ phải bổ khuyết không ngừng nghỉ. Cho nên mới thuận theo lòng Trời để cầu học sự chơn giải.
Pháp thuỷ càng say, khai mở trí tuệ
Đạo đức càng tu, càng linh thánh thể.
Say Đạo học kinh và thiền định khai sáng trí tuệ để hiệp nhất cùng Đạo là sự cần thiết. Đến khi kinh điển khai mở, thì đường Thiên Xích được đả thông, Linh Tánh theo đường Thiên Xích về tới Thiên Không hiệp Đạo.
Lúc này người tu luyện Đạo tỏ sáng ra, và như say trong bầu Hư Linh Chi Khí thanh nhẹ.
Càng say thì càng phát huy giới định huệ không ngừng. Ra công trau giồi tham thiền nhập định càng dài hạn, thì hoả lực càng sáng bừng lên, Linh Tâm thông suốt các Nguyên Điển, Đạo Kinh ứng hiệp vô cùng tận. Cho nên:
Tâm Đạo quân bình, đạo đức nhuần gội
Văn điển thông suốt, Pháp thuỷ tưới mát.
Đạo thông một lý
Ứng biến vạn pháp.
(Hết trang 25)
(Tiếp đầu trang 22)
Trên ứng theo Thiên Lý truyền tâm
Viết kinh lý khêu sáng lòng đạo đức.
Trời dạy người để theo đường đạo đức về quê. Phật dạy người để khai thông giáo pháp. Từ đó mới sanh ra pháp môn, sanh ra thuyết pháp. Để cho:
Đạo gia biết đó mà tu hành
Phật gia biết đó mà chơn giải.
- Thông một pháp ứng biết vạn pháp vô ngại
- Thông một lý ứng biết hết các văn tự.
Thế mới gọi đạo đức của cõi Trung Dung.
Thế mới gặp được Chơn Kinh Không chơn giải.
Kinh do lý mà phổ hoá đi khắp Tam Thiên. Đạo do văn tự diễn giải đi khắp thiên hạ.
Cũng như nước bắt đầu từ nguồn rồi chảy ra biển. Rồi từ biển theo không khí lên không gian làm sương khuya, làm mưa tưới khắp thiên hạ, rồi lại trở về biển.
Đạo lý cũng ở trong thế hồi sinh như vậy. Vì:
Nhất bổn tán vạn thù
Vạn thù quy nhất bổn.
Đạo từ đó mà đi.
Đạo người tu thuần hiệp.
Không chuyển tiếp mà chuyển tiếp
Không giáo dạy mà giáo dạy.
Trời dạy người không phải bằng lời, mà người đạo đức cảm ứng đầy đủ.
Thần Thánh giúp người không bằng hành động, mà linh nghiệm vô cùng.
Chỉ có bậc chí hiền, chí Thánh mới rõ Đạo Lý này.
Chỉ có bậc thanh tịnh mới thấu suốt được linh tánh.
- Thiên theo thời mà ứng vận
- Địa theo lợi mà sanh mệnh.
- Đức trọng ở chỗ khéo trồng
- Nhân hoà ở chỗ khéo dụng.
Rượu càng uống càng say
Đạo càng luyện càng sáng.
Rượu uống để khao quân thưởng tướng. Rượu uống với hàng tri kỷ tâm giao tình hiệp. Dù có say không biết lối về, mà lòng vẫn chưa vơi hết sự trìu mến quý thương. Dù có cạn ly nhưng tình tri kỷ không bao giờ cạn.
Còn say Đạo là say trong thiền giác.
(Hết trang 23)
(Tiếp đầu trang 16)
Lòng mà chịu chay tịnh thì Thất Tình Lục Dục không sanh. Lục Dục không làm loạn, trong ngoài thường giới.
Còn tâm chay là không nhiễm trần, Hư Vô an tịnh. Trí tuệ phát sanh, thông rõ luật nhân quả thì tâm an định.
Đó gọi là chay tịnh của hàng đạo đức, của bậc chơn tu.
Lòng không lòng - thường chay
Giới không động - định huệ.
Dù thân có ở thế gian nhưng lòng đã cầu kinh chơn giải.
Tuy hoà sống theo nhân sanh, đừng xuôi thuận theo ma chướng. Vì có câu:
Đạo cao nhất xích, Ma cao nhất trượng.
Đạo cao nhất trượng, Ma nhượng đầu sư.
Nếu đem tâm cầu Đạo, thì Đạo chứng tâm, nên được giải thoát.
Nếu đem tâm cầu Ma, thì Ma dục khảo, Đạo hư.
Lại có hạng người lấy Ma khảo đi khảo người khác, nên sanh ra Quần Ma phá Đạo mà vẫn chưa hồi tỉnh.
Vì Đạo mà hy sinh, đem chánh giác cho họ tỉnh. Lấy độ lượng cho họ học để tự cầu chơn giải.
Giới không động là đạt định huệ, nên phàm tâm không sanh. Dù cho thử thách có đến, lòng vẫn luôn giữ giới để tu.
Không lễ không nhận
Không Đạo không tiếp.
Ngoài không nghe Ngũ Uẩn để kềm thủ bên ngoài. Trong lo thanh tịnh công phu để kềm tâm giới.
Nếu thấy mọi việc được an, tự nhiên ánh sáng trong chơn tâm tỏa rộng, trí tuệ viễn minh. Đến đây mới biết trong tâm của mình có đủ kinh chơn giải.
Người chơn tu không tự giới mình,
thì định huệ không phát.
Còn đạo đức mà không hành,
thì độ lượng cũng chưa có.
Không thể bàn xuôi mà lập được văn tự
Không thể không tu mà thành bậc viên giác.
Có thân không biết giữ. Có vợ con mà lại đi kiếm thêm. Còn lại bàn Kinh Chơn Giải, hỏi học Đạo Gia. Không khác nào mùa hạn cầu mưa, mùa Đông không lửa. Có bàn được cái đạo đức cho vui tai, chớ tâm chưa minh, tánh chưa tịnh. Có hiểu cũng ở ngoài thềm của Đạo Giáo.
Muốn học được pháp đốn ngộ, trước phải biết lập tâm thân.
Đời cũng muốn ôm, Đạo cũng muốn học là không được. Bởi vì con người chỉ có một cái tâm, thì không thể chứa hai thứ trong một lúc được.
Không khác gì người muốn thành bác sĩ, kỹ sư, rồi lại muốn thành chánh quả viên mãn, thì xưa nay chưa từng có, và cũng chưa từng nghe.
Vậy mà đời nay lại kết thành một khối kinh lý và đạo đức để bàn cãi. Thật nhợt nhạt vô cùng.
Quân tử cầu đạo
Chứ không cầu thực.
Quân tử lo tu thân, cầu Đạo, mà quên việc công danh. Lấy lòng nhân vì thiên hạ, chớ không manh tâm chiếm giữ.
Có làm, chẳng qua vì Đạo Trời mà làm việc nhân nghĩa, chứ không cầu lợi lộc cho mình. Sống như người thanh liêm, vui sống với lòng trung nghĩa.
Không xứng chức, không nhận công
Không có công, không nhận thưởng.
Người quân tử một khi đã dứt khoát, quyết đi theo đường Đạo, thì coi nhẹ vạn sự của trần đời, nên đạt được giải thoát.
Còn người bình xình thì ôm cả hai. Tiến thì không giải được, vì bị rối trong thắc mắc. Còn lùi thì bị đè nặng theo lòng phân biệt cạnh tranh.
Xưa nay từ bậc đế vương cho đến công hầu, khi đã có ý định tu hành, thì buông bỏ quan quyền để cầu Đạo. Chớ ít có ai bỏ Đạo đi cầu quan bao giờ. Nếu có cũng nghịch lý, ở đời khó thuận lòng Trời, thì làm sao thành chánh quả được.
Hư Vô không biên giới
Đạo đức không giai cấp.
Còn ôm giai cấp mà đi tu, thì như người đội đá chống trời. Trời xa không chống được, nhưng suốt đời vì nặng. Đầu đã đội đá, bụng chứa vật thì làm sao mà nhẹ gót để đạp gió đè mây theo đường Thiên Lý.
Còn đem lý thuyết để bàn cãi để cho thỏa mãn lòng dục. Cũng như bánh vẽ, không lẽ ăn được no lòng đỡ dạ hay sao?
Còn bàn thấp luận cao mà vào được Đạo Lớn, thì Phật khỏi phải vào núi để tu luyện. Đạt Ma khỏi ngồi luyện tâm, diện bích tọa thiền. Tiên Thánh khỏi cần phải lên non luyện tánh. Lục Tổ sẽ không được thành Đạo, vì dốt học ở đường công danh thị hiếu.
Nên Phật có dạy:
Tu Đạo như lông trâu.
Thành Đạo như sừng lân.
Trâu thì lông lưa thưa. Lân thì chỉ có một sừng.
Nên xưa nay người tu miệng thì nhiều, người ra công tu luyện thì rất hiếm. Không mấy ai chịu khổ công tu luyện cho tới nơi.
Người tu Đạo bàn thanh
Khách ở đời chấp trược.
Vì vậy sanh ra Đời Đạo chơn giải chưa minh bạch; sanh ra ngộ tánh chưa thấu suốt lý Đạo.
Kẻ ôm kinh, học rồi lại chấp văn tự kinh giải. Người ôm pháp, ngồi lì không chịu học tập.
Cục đá không mài thành gương
Ngồi lâu không thành Phật được.
Ngồi lâu mà thành Đạo được, thì cục đá đã thành Đạo trước mình lâu rồi.
Còn bàn cãi, mà thành Đạo được, thì két sáo cũng đã thành rồi.
Vì vậy:
- Kinh chơn giải là không có sự chơn giải.
- Kinh đạo đức là không có giành giựt đạo đức.
Chơn giải tùy tâm ứng cảm
Đạo đức tuỳ tâm độ lượng.
Trời vì lòng Đạo nên 'vô thinh chi giáo'. Thánh vì lòng nhân vô tư cảm ứng mà viết ra kinh luận cho phù hợp với lòng nhân loại.
Minh Đạo không bàn văn
Đạt Đạo không cầu võ.
Vì khí linh trong người đã ứng hiệp với lòng Trời. Vì Đạo linh trong người đã ứng với Vũ Trụ. Mỗi mỗi có sự nhịp nhàng kết hợp không dừng.
Tâm động Thần giao
Khí động Thần chuyển.
Minh được cái tâm chơn, thì giải được kinh pháp. Giao cảm được Thiên Lý, thì xuôi thuận được lòng Trời.
Thông được cái khí linh, Thần Thánh đều cảm ứng. Theo lòng Đạo mà chuyển, giáo độ đời không dứt.
Tuy viết văn tự mà không chấp trong văn tự. Tuy viết kinh luận mà không chấp trong kinh luận.
Mượn văn tự để giải thông các lý đạo đức. Mượn kinh luận để diễn giải pháp môn tu luyện.
(Hết trang 21.)
(Tiếp đầu trang 12)
Đến đây:
Tâm kiến bất động
Như Lai an tịnh.
Người ra đời học tập để cầu danh
Mình ra đời học tập để giải thoát.
Lúc này đức lành đã hiển lộ ra bên ngoài. Nhu hiền độ lượng, Đạo Lý tinh thông mọi lẽ huyền vi.
- Đó chỉ mới bước vào ngưỡng cửa của pháp môn thanh tịnh.
- Đó chỉ đạt được một phần thanh tịnh chơn giải điển giới.
Đến đây phải biết:
Hay theo cầu Đạo.
Dở thì phải bỏ.
Tầm đất linh để yên thân
Tầm Đạo linh để tu dưỡng.
Đời tu học cũng không dừng
Đạo tu luyện cũng không dứt.
Luật đạo đức là không tiến thì lùi, chứ không ở một vị trí. Vì nó là khí điển của Hư Linh Chi Khí Thiên Tiên; cũng có thể kết tụ; cũng có thể tan biến như mây khói.
Khi Đạo quả chưa thành, mà dừng tu thì nó bị tuột xuống cũng như hàng chúng sanh, tâm Thất Tình nhiễm đủ. Đừng vội nói là mình thông suốt, thấu hiểu kinh lý đạo đức.
Đạo đức mà thật đạo đức, nó không nói ra lời, vô mùi, vô vị. Nó không bàn theo lý lẽ, chỉ biết hành Đạo mà thôi.
Kinh lý mà thông suốt kinh lý thì nó không nhiễm trần.
Viên gạch không thể mài hoài mà làm gương soi được. Đạo đức không thể ngồi lì mà tỏ ngộ được chơn lý Hư Vô.
Cát nấu thành thuỷ tinh là nhờ có công thức pha chế.
Không ai mới vào trường mà đi thi Đại Học. Không minh sư nào dạy pháp môn tột đỉnh cho đứa mới học.
Cái mà bàn được, tập được, đó là các pháp hửu vi. Có học được cũng là tiểu học. Cho nên căn nào về căn nấy.
Khi đã thụ huấn, tự mình thấy tánh mình sinh ra thiện hay ác, lành hay dữ, Ma hay Bồ Tát, người hay Quỷ. Rồi Trời sẽ giáo dạy tiếp để cải tiến tinh thần.
Gạo không sàng không sạch
Đạo không lọc không thanh.
Trời lấy Tam Ngươn để giáo dạy nhân loại.
Người lấy Tinh Khí Thần để tu luyện linh tánh.
Trời có Hư Vô Chi Khí
Người có Linh Tâm Thiên Lý.
Người muốn đồng với Trời thì phải tầm cho được cái Linh Tâm.
Nhất Lý quy tâm
Nhất Thiên quy tánh.
Đạo lấy tâm làm sáng, lấy đức làm linh. Đã hiệp sánh linh, thì hiệp cùng Hư Vô Chi Khí. Từ đó mới ban ra cho khắp Càn Khôn Vũ Trụ, mới bủa khắp muôn nơi, dưới trên hoà thuận. Cho nên:
- Người hiền đức theo đó để xuôi thuận lòng Trời.
- Người Đạo Gia tu luyện cho kịp cái Đạo của Trời.
- Người quân tử hành cho được cái Đạo của Trời.
Nhờ Đạo linh nhất biến
Nhờ khí linh nhất chuyển.
Nhờ vậy mà thiên hạ Thái Bình, cỏ cây nhuần thắm khí linh, và đạo đức phổ hoá cho người tập luyện.
Người ngộ tánh để tu Tiên
Đạo nhuần đức để viên mãn.
Linh khí là một chất chí linh, chí thiện, chí vô tư. Đức độ là độ lượng trong mọi hình thức độ lượng.
Trời lấy khí linh để nuôi người và vạn loại. Người nên lấy độ lượng mà thương người, tha vật.
Việc chay tịnh không bắt buộc, nhưng cần phải có. Lòng từ bi bố thí miễn bàn, nhưng không thể thiếu.
Thanh sạch nhờ chay tịnh
Lòng ngay nhờ tánh thẳng.
Xưa nay nghe các Phật Kinh luận bàn về cái chay tịnh, mà trong hàng đạo đức, viên giác, hiền nhân, chưa mấy ai thấu rõ được cái nghĩa nhân quả của nó, rồi đem ra bàn cãi về việc chay tịnh, nên tạo ra nhiều nghiệp chướng. Vì chưa thấu hiểu mà bàn.
Chay tịnh ở đây nói đến ở chỗ viên giác Thanh Tĩnh Kinh.
Lòng chay thì sạch dục giới
Tâm chay thì khai định huệ.
(Hết trang 15)
(Tiếp đầu trang 9)
Đạo tiến nhờ thấu hiểu
Kinh thông nhờ chỉ rõ.
Phép thanh tịnh ở trong các pháp để an Đạo. Lý nhân quả ở trong các giới để độ lượng.
Người tu thanh thường luôn khử trược trong thân, trong tâm và trong mọi hành động.
Đức lớn nhờ khiêm nhường
Đạo tĩnh nhờ khử trược.
Mỗi ngày gia tăng công phu thì lấy khí thanh để giải ô trược.
Tập đức nhẫn nhịn và yên lặng để giải động. Để cho lòng trống việc đời, để luôn đầy chơn khí.
Hoá giải sự ô nhiễm của tình đời quấy phá. Hoá giải cái ố Đạo của lòng người trêu chọc.
Tĩnh cái tâm - thường an
Luyện cái Đạo - thường thanh.
Tâm thanh là tìm ngôi Niết Bàn Chơn Thể. Tịnh cái tánh để hoá giải nghiệp chướng ở trong lòng.
Dùng phương pháp tu luyện Âm Dương mà tiến giải.
Cải tà cái tâm
Quy chánh cái tánh.
Phàm làm người không ai mà không bị ố nhiễm.
Phàm học Đạo không ai mà không bị phạm giới.
Ố nhiễm, dùng pháp để giới
Phạm giới, dùng hiểu biết để giải.
Trời sáng có lúc mây che phủ lấp thành tối. Đạo đức có lúc động tánh cũng phải mờ dần.
Đó là luật tiến thối của Vũ Trụ vận hành. Đó là Đạo Lý sanh hoá để dạy nhân loại:
Lúc sáng biết bủa khắp.
Lúc tối biết kết lại.
Lúc Đạo bình là lúc trí tuệ hừng phát. Hãy đem nó ra mà phổ hoá cho nhân loại. Hãy chuyển nó đi cùng khắp thiên hạ. Để nhân tâm theo đó mà ứng cho kịp Thiên Lý. Để nhân sanh theo đó mà tu cho kịp cơ chuyển thế.
Trời sanh pháp để ứng tâm.
Đạo sanh lý để hoá giải.
Người đạt thanh tịnh mới ứng tâm với Trời Đất. Người thông suốt Hư Vô mới đủ lý để giải.
Tuy lý Đạo đơn thuần mà bộc bạch được cảm tính. Tuy áp dụng đơn giản mà lòng người chuyển hướng.
Nên thay người bằng chơn tâm thanh tịnh cảm hóa. Nên xoay người thành chơn tu tâm tịnh giải thoát.
Cái giác ngộ một lúc sẽ đổi được con người cằn cỗi. Việc hiểu Đạo một lúc sẽ thay được vị trí sống của họ.
Tâm linh tầm duyên hiệp
Đạo phát kết duyên lành.
Ai đã đi tu lòng lại không muốn tầm đường giải thoát. Ai đã thông minh thì tự học được sự hiểu biết.
Sự hiểu biết đi kèm với sự giải thoát thì sáng. Lấy bổ khuyết kinh điển để tu thì thanh tịnh.
Tâm đã hiệp được khí linh của Trời Đất thì linh; hiệp được Đạo Hư Không thì thông suốt các lý.
Chơn tâm quy nhất
Thấu ngộ Huyền Cơ.
Đến đây người chơn tu tầm nơi yên để tu giải thoát. Tầm chỗ định để kết thai, lập đảnh an lư.
Trên thông được Tạo Hoá giáo dạy điển lành. Dưới thấu được thiên văn, địa lý mà tu dưỡng.
Tịnh khẩu nuôi chơn khí
Dưỡng thai để lập đảnh.
(Hết trang 11)
(Tiếp đầu trang 6)
Sức Đạo
Nước mạnh nhờ lực
Sức mạnh nhờ giồi
Nhân mạnh nhờ đức
Trí mạnh nhờ thức.
Minh Đạo
Đạo minh nhờ ngộ
Đạo giác nhờ thông
Đạo thanh nhờ tịnh
Đạo chánh nhờ tâm
Minh Đức tân dân
Minh Đạo tân tiến
Minh Diệu quyền biến
Minh Tâm Đạo chuyển.
Sức Đạo Yên Dụng
Sức mạnh của Đạo bằng sự yên tịnh
Minh diệu của Đạo bằng sự thanh sáng.
Lấy đức để tịnh yên thì mạnh Đạo.
Dụng Đạo để thanh sáng thì huyền đồng.
Niết Bàn An Ngự
Đạo ở không gian hiệp Hư Vô
Ở trong Thái Cực Lưỡng Nghi Đồ
Ở trong cơ thể Linh Quang Phật
Tam thể Chơn Linh Khí Hư Vô.
Đường Trung Đạo
Một Trung Thần giữ yên xã tắc
Một Thánh Bút gồm thâu thiên hạ.
Tài Hoa Của Đạo
Một đường gươm an định sơn hà
Một ngòi bút an ban xã tắc.
Tu Dưỡng Huyền Công
Nam thanh bạch hổ
Nữ tịnh xích long.
Nam thuần dương khí
Nữ diệt kinh huyệt.
Nam lấy cái Đạo thanh để dưỡng
Nữ lấy cái Đức tịnh để tu.
Thường công phu là lập thế đứng
Thường tu sửa để bổ dưỡng luân lý.
Điển nhờ khí để giải thông
Người nhờ hiểu biết để giải lý
- Một luân lưu cái Thiên Lý
- Một thông suốt cái tâm lý.
Cho nên học Đạo không bỏ văn tự.
Cần văn tự căn bản Đạo Lý.
Bỏ văn tự vòng eo khó hiểu.
Để xây dựng cái trí tuệ mạnh lành, cho người tu thanh tịnh phát khởi.
Tâm thanh cầu học Phật
Tịnh tánh hiệp Đạo Căn.
Phật Pháp xưa nay chứng tâm truyền căn.
Đạo Lý xưa nay kiến tánh thành Đạo.
Nhất Dương thanh đắc Thánh
Nhất Âm tịnh đắc Hiền.
- Trời lấy điển để chuyển hoá Càn Khôn Vũ Trụ.
- Đất lấy ngũ sắc kết vật để nuôi dưỡng.
- Người tu lấy Đạo thanh để bổ khuyết Chơn Dương, lấy Đức huyền để tạo thai, sản thể.
Không một lý đơn độc mà làm được việc Đạo. Không một thế đơn phương mà tu được Đạo.
Thái Cực còn mượn Âm Dương để sanh hoá. Con người còn mượn Tinh Khí Thần để luyện Đạo.
Luyện đến chỗ thanh tịnh minh tâm, thì cần giữ giới. Giới là đạo đức của Tam Giáo, không thể bỏ được.
Tâm là lý của Trời Đất, nên không thể thiếu được. Mỗi sự lập thành của Trời như có sự cố định. Mỗi mỗi sanh ra đều như có cả sự kết hợp.
(Hết trang 8)
(Tiếp đầu trang 3 đến cuối trang 5)
THAM THIỀN NHẬP ĐỊNH
Mệnh Lý của Tiên Thiên Nhất Khí, ở đây xin phép được gượng gạo mà bàn, để cho Đạo Gia thông suốt được cái bổn tánh Nhất Nguyên và sự tu luyện để hiệp cái khí Hư Vô Tiên Thiên Mệnh Lý mà tu luyện. Chứ ở chỗ đó chỉ lấy sự thanh tịnh của Đạo Tâm mà tự cảm, tự ứng để hiệp. Chứ nó là chỗ 'cùng lý tận tánh' hiển lộ cái thiên chân rồi vậy.
Chơn Lý Hư Không
Tự cảm tự ứng
Tự minh tự ngộ
Là chỗ miễn bàn.
Vậy thì ở đây chỉ bàn được chỗ:
Từ đây đến cõi Thái Nguyên
Từ Thái Nguyên chuyển thể vào đây.
Linh điển khai mở các tầng mây
Tâm giao ý hiệp Linh Tâm Học.
Trung Dung chuyển tiếp vào nguồn gốc
Âm Dương hoà hiệp Đạo Hư Vô.
Mở một con đường từ Trung Đạo
Là Đạo Thuần Dương tự bước vô.
Dương thuần thanh Tiên Thể
Âm thuần tịnh tánh Tiên
Âm Dương thuần Đạo hiệp
Sanh thánh thể Kim Tiên.
Cho nên người luyện Đạo trước phải tầm cho được bậc minh sư. Kế đến phải hỏi pháp môn tu giải thoát. Hai điều đó có rồi, thì phải truy cứu học tập cùng minh sư một thời gian, để thấu hiểu được công thức, kinh nghiệm, để mà luyện tập cho đúng phương pháp. Rồi cần có thời gian đàm đạo, trau dồi cho thông cái văn tự điển kinh mà hành cho có kết quả.
Văn tự bổ lý trí
Lý trí được thông suốt
Thì người hành đến được
Chỗ Diệu Pháp Liên Hoa.
Kinh luận bổ tâm thức
Tâm thức được thông suốt
Thì mở được đường Đạo
Trung Dung không ràng buộc.
Hư Vô là Đạo Thể Thiên Tiên.
Thái Cực là khí Thiên Tiên chuyển tiếp.
Ý nói, trong Vô có Hửu.
Nghĩa là:
Đạo Hư Vô sanh Thái Cực, là từ Không Hình Sắc mà sanh Hửu Sắc. Thái Cực sanh Âm Dương. Trời Không sanh Hửu Sắc. Hửu Sắc sanh Ba Ngôi. Ba Ngôi sanh vạn vật, nhân loại.
Vô tướng sanh nhất bổn
Nhất bổn tán vạn thù
Vạn thù quy nhất bổn
Nhất bổn hườn Hư Không.
Từ Chơn Không sanh ra Hư Không
Từ Hư Không sanh ra Thái Cực
Từ Thái Cực sanh ra nhân loại
Từ nhân loại tu trở lại Nhất Nguyên.
Thơ
Linh Quang một điểm tánh Nhất Nguyên
Tròn tròn sáng sáng lý Tiên Thiên
Mượn thêm Bảy Thức gieo hình tướng
Kết tụ thành thân ở hạ miền.
(Hết trang 5)