Cảm Tạ
☀️
Con thành tâm cảm tạ Thiên ân của Đức Phật Tổ, Đức Cha Trời Mẹ Đất, và Cộng Đồng Cửu Phẩm - Phật, Tiên, Thánh, Thần - Tam Giới Thiên Địa Nhân.
Con cũng thành tâm cảm tạ công ơn Thầy Tổ và chư vị Đạo Hửu ở địa phương và năm châu thế giới, đã đặc biệt quang chiếu Thanh Quang Điển Lành và trợ giúp cho con có phương tiện thực hiện các tập sách - Thi Văn Tâm Linh Đạo Học - để con và chư vị Đạo Hửu có cơ hội phụng sự Cơ Thiên Địa Đại Đạo của Đức Như Lai Phật Tổ và Đức Thiên Địa Phụ Mẫu.
Con chân thành ước mong được chia sẻ Tình Thương, Đạo Đức, và sự hiểu biết về Sức Khoẻ và Tâm Linh Điển Quang Đạo Học cùng với cộng đồng Nhân Sinh, Vạn Linh Tam Giới.
Một lần nữa con xin thành tâm đảnh lễ và cảm tạ Thiên Ân Bề Trên, và con đặc biệt cảm tạ chư vị Đạo Hửu, Thân Hửu cùng tất cả quí bạn đọc khắp nơi trên thế giới đã và đang dành rất nhiều cảm tình và sự trợ giúp quí báu.
Trân trọng kính bái,
Vô Danh Thị
LỜI TỰA
Xưa nay bao kinh điển giảng giải về chữ Đạo, mà chưa ai làm sáng tỏ nó ra cho các giới đồng hiểu về cái sáng huyền diệu và minh triết của Đạo. Nay tôi xin lấy sự giác ngộ của bản thân để chia sẻ cùng các bạn học giả tham thiền "đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu" chỗ huyền huyền diệu diệu của Đạo.
Các bạn hãy cùng tôi đi sâu trong Vũ Trụ Quang để đồng nghiên cứu sự huyền diệu linh ứng của Đạo, và đồng tịnh luyện để thấy được Đạo là con đường giải thoát, và để thấy các cảnh trí vô thinh thanh tịnh.
Chúng ta cùng đi đến mục đích của nó bằng:
Đạo Phi Thường Đạo
Danh Phi Thường Danh.
Bạn có đi đến chỗ vô cùng của Đạo thì mới thấy sự huyền diệu của Đạo Pháp là: pháp Lực, pháp Thân, và phát Quang, phát Huệ. Khi bạn có đi qua hết các trường đạo đức từ Chơn Thần, Chơn Thánh, Chơn Tiên, và Chơn Phật; các bạn có học hết và qua các trường Đạo Học Tâm Linh như trên, thì mới thông suốt được câu: "Đạo Phi Thường Đạo, Danh Phi Thường Danh."
Ở đó hoàn toàn là Linh Khí của Hư Vô, trên dưới thông suốt, trước sau không nhiễm, trong ngoài trống rỗng mà dung chứa hết tất cả mọi vật linh ứng. Đi khắp Tam Thiên Thế Giới, Ba Cõi, Sáu Cung, đều thấu triệt Linh Khí của Hư Không. Đến thì hiệp, đi thì tan, gặp thì kết, nơi nào cũng hoá duyên được, vị trí nào cũng tận độ được trong linh giác của người đạt Đạo. Tuy là cõi Hư Không vô hình bóng, mà rất sống động trong các lãnh vực siêu nhiên. Vốn của Hư Không Chi Khí là Không Không. Nhưng cũng từ đó sanh ra Đạo và các Linh Sắc, và các Linh Tướng.
Còn người tu lưu thanh khử trược là giải cho tâm thức của chính mình thông suốt được những di thức mà mình mượn từ cõi Hư Không. Chơn Linh lìa Không để xuống đầu thai làm một con người. Đạo cũng từ Không - Hư Vô Chi Khí - mà đi. Người tu từ đây tu luyện về để hiệp cùng Đạo, cho nên phải cần có sự chơn giải của các vị Minh Sư thành Đạo, để làm một con đường minh chánh tâm kinh, hồi quang phản chiếu, để thành thiên chân thuật luận.
Đạo Lớn Không Tên
nên làm Thầy.
Đức Lớn như Không Gian
nên làm Cha.
Nhân Lớn như Vũ Trụ
nên làm Mẹ.
Kính Bái,
Vô Danh Thị.
Chơn Đạo Vô Hình.
Chơn Phật Vô Tướng.
Chơn Nhơn Vô Danh.
Chơn Tu Vô Tranh.
(Hết trang 2.)
(Tiếp trang 79.)
Tiên Ông dạy:
- Nước có ba thời kỳ:
- Nước Lớn
- Nước Ròng
- Nước Bình.
Tiên Đạo Lúc Nước Lớn phải biết phổ truyền cái Đạo Đức của Trời, để cho người biết chỗ giải thoát tinh thần.
Người nhân đem cái đạo Chí Nhân phổ truyền để cho lành cái đức của mình và lành cái Đạo của Trời.
Đức Lớn nên thờ Đạo của Trời
Đạo Lớn nên dưỡng Đức của người.
Khi mặt nước lên cao.
- Quốc gia được hưng thịnh:
Bậc nhân sĩ làm việc chí công
Hàng đạo đức làm việc vô tư.
Trên đại diện Đạo Trời
Dưới yên lòng bá tánh.
Lòng dân bủa khắp
Thiên hạ Thái Bình.
Thiên hạ được an
Quốc gia cường thịnh.
Dân giàu nước mạnh
Ích nước lợi dân.
- Đạo đức cường thịnh:
Nhân Sĩ lớn là hàng Đạo Học
Phải đi theo nguồn gốc Đạo Gia.
Diệt giả ngã
Phi ngã, phi phi ngã.
Đạo Lớn không phân thiện ác
Pháp Lớn không nhiễm chánh tà.
Đạo Lớn vô tranh quốc gia hưng thịnh
Nhân Lớn vô tranh tạo phước cho đời.
Người chí nhân thờ Đạo Trời
Bậc giác ngộ Đạo thờ chung một gốc.
Phật cũng ở Tây Thiên Trúc
Tiên cũng ở Trời Vô Cực
Cả hai đều là bậc Chân Nhân
Vô tánh, vô tâm, vô trần, vô dục.
Trên thấu lý Hư Vô
Sáng soi cho nhân loại.
Vào đời là muốn khai sáng lòng nhân
Mở Đạo để chỉ đường tu giải thoát.
Phật vô tánh nên về Trời Không Tướng
Tiên vô tâm nên về hiệp Hư Không.
Trong giữ Đạo trống lòng
nên tâm an
Ngoài không nhiễm thiện ác
nên tánh tịnh.
Vào đời vì khai định chánh kinh
Tỉnh Đạo vì yêu chung nhân loại.
Trước sau một Đạo của Trời
Dưới trên thông Thiên Huyền Học.
Kiến thị nhãn thông
Điểm Đạo hoá độ.
Không ôm chùa to tạo đồ chúng mê lòng
Không ôm Phật lớn làm cho người mê tín.
Đạo trong nhân là tu lấy thân mình
Tâm tỉnh, thân an, thoát vòng trần tục.
Đường vinh nẽo nhục xa cái lòng phàm
Mới vào ngả Phật từ bi giải nạn.
Ôm nhiều sanh ra nghiệp chướng
Mê nhiều sanh ra ngả luân hồi.
Khôn nhiều sanh ra lòng phân biệt
Biết nhiều sanh ra chúng sanh tâm.
Xưa nay người thông minh học Đạo bị sự thông minh của mình che đậy trí tuệ. Thượng Nhân thường dạy:
Người thông minh
Bị thông minh gạt.
Người khôn ngoan
Bị sự khôn ngoan của mình lừa gạt.
Người trí thức
Bị sự học vấn của mình hại.
- Lòng nhân được hưng thịnh:
Lòng của người là một sức mạnh
Về tinh thần, nó có thể lên chín tầng mây để làm Tiên đắc Phật.
Về vật chất, nó có thể xuyên phá mười tám cửa Địa Ngục để vào làm Quỷ Vô Thường.
Bậc hành Đạo, tỉnh tâm, tịnh ý
Là muốn giữ tấm lòng của mình cho thật chí nhân.
Đạo Lớn của lòng nhân
là vô ngã, phi tướng.
Đức Lớn của lòng nhân
là có sự độ lượng chứa mãi không đầy.
Nhân Lớn của lòng nhân
là độ mình và độ tha cho nhân loại.
Con có biết diệt ngã, phi danh, vô tướng
Thì mới vượt qua ngại chướng của Thánh Phàm.
Xưa nay Phật dạy đáo ngả Tây Phương
Hỏi lại người tu mấy ai biết giải thoát.
Người giải thoát là không tranh đoạt
Hàng tranh đoạt là chưa biết giải thoát.
Ngộ lớn không ai đi tranh việc nhỏ
Đạt lớn không đi ngả luân hồi.
Xưa nay tu Đạo thì đông
Khách ngộ Không chẳng có mấy.
Người phân biệt
bị sự phân biệt của mình che đậy.
Học đời: thêm
rồi thêm tới chỗ đoạ lạc.
Học Đạo: bớt
rồi lại bớt tới chỗ giải thoát.
Nước hưng kiến thiết lòng nhân
Đạo hưng giải thoát cái lòng phân biệt.
Giải được sự phân biệt Đạo mới thật chơn
Đạo thật chơn phải luyện tới chỗ Toàn Chơn.
- Nhân nghĩa được hưng thịnh:
Người nhân dùng nghĩa để độ đời
Nước lớn dạy người minh tâm ra phò Đạo.
Người nhân nghĩa không đoạt sở thích của người khác
Người nhân nghĩa không tranh quyền đoạt lợi của kẻ khác.
- Thật nhân nghĩa:
Ở chỗ cao biết độ tha
Ở chỗ thấp biết phò trợ
Vào trong nhân loại trợ duyên
Ra ngoài dùng Đạo hành nghĩa.
Nói lời nói quang minh
Làm việc làm chơn chánh.
Phật dạy:
Hành nghĩa là cái nền lớn
Lòng nhân là cái nhà lớn.
Người có đủ nhân nghĩa là đã cất cho mình một căn nhà lớn ở trên Trời rồi vậy.
Xưa nay Tiên Phật tu thân cũng không đi ngoài việc nhân nghĩa.
Thấy thiếu thì cho
Thấy dư thì quyên góp
Thấy ngã thì nâng
Thấy té thì đỡ.
Việc nhân nghĩa là lòng lớn của Chư Phật
Là cái công đức từ thiện lợi tha.
Hành Đạo cho đúng bậc nhân nghĩa
Thì vào hàng chí nhân đạt Đạo.
Nhân nghĩa là ngọn đuốc lớn
Để soi sáng cho bậc có từ tâm
Biết thi ân giúp đời độ chúng
Tích luỹ phước thiện để về Trời.
Việc nhân nghĩa là cái mực thước
Của hàng thiện đức làm phước tu thân.
Giúp người để người thức lòng phò Đạo
Cứu người để người gieo nhân lành kế tiếp.
Trồng nhân trợ đạo nghĩa
Trồng nghĩa trợ đạo nhân.
Người có đủ tinh thần lành mạnh
Không coi thường việc nhân nghĩa.
Người có đủ nhân nghĩa chơn chính
Không coi thường việc từ thiện độ tha.
Gốc lớn của Trời là lòng nhân
Đạo lớn của Phật là hành nghĩa.
Cho nên Phật dạy:
Kiểm lại cái lòng nhân
Khai tỉnh Lục Căn
Dạy đám Lục Trần
Cho tụi nó biết đường đi giải thoát.
Trời tuy xa tám trăm bốn chục ngàn dặm
Nhưng người có lòng nhân sẽ đi đến được.
Địa Ngục sâu một trăm tám chục ngàn dặm
Mà kẻ ác cũng biết mở cửa đi vào.
Nhẹ bay lên làm Trời
Nặng tuột xuống làm Đất.
Người có lòng Đạo phải biết tu tỉnh
Để cho cái lòng nhân thành bậc chí nhân.
Chân Nhân hướng độ tinh thần
Chân Nhân siêu độ lòng dân.
- Bậc trí sĩ được hưng thịnh:
Phật niệm kinh để luyện thành trí sĩ
Tiên đánh cờ để luyện đạo vĩ nhân.
Bậc trí sĩ thượng căn
Biết người biết mình
Muôn việc thành tựu.
Tịnh mình tỉnh người
Liên hoàn trợ thủ.
Bậc trí sĩ luyện mình trong nhân tâm
Trí lớn nước thịnh biết dùng.
Văn chương đạo đức phổ rộng truyền xa
Khai nền Văn Phật cho thiên hạ đồng học.
Đức Lớn của Trời
Tình Lớn của Chư Phật.
Đem Đạo Lý khai sáng nền văn hoá
Mở văn minh cho thiên hạ đồng về.
Trí lớn khai ngọn đuốc Bồ Đề
Nhân sĩ lớn lào thông chơn lý.
Phật dạy:
Trí giác ngộ thành sĩ tử
Sĩ tử giác tha thành đắc nhất
Đắc nhất trí giác thành ngộ Không
Ngộ Không thành bậc có trí tuệ.
Đem trí sĩ độ đời
Thì lòng nhân bủa khắp
Độ lượng được sâu rộng
Thiên hạ cảm đức lớn
Mến các nhân sĩ lớn
Mà vui hoà bốn phương
Trên dưới đồng thuận Đạo.
Đem trí sĩ ra làm việc
Thì sự công minh được mở ra
Nơi đô thành có hàng phụ mẫu
Chốn thôn làng có bậc thanh liêm
Cả hai hội thành sĩ tử của thời Thượng Đức.
- Nhân sĩ được hưng thịnh:
Lòng từ bi tế thế an bang
Đức nhân ái gội nhuần chơn Đạo.
Lòng nhân là Linh Bảo của Trời
Bậc thượng sĩ vào đời tỉnh thế.
- Đức lớn của nhân sĩ:
Là lòng bao dung vô bờ bến
Lên cao chứa trí tuệ độ tha
Xuống thấp chứa độ lượng yêu thương.
Mở trí cho người thượng đức
Mở tâm cho bậc nhân hiền.
Ra giữa công đường thành bậc thanh liêm
Vào trong công lý làm gương nhân sĩ.
- Đạo Lớn của bậc nhân sĩ:
Kỉnh Trời trọng Phật cho thiên hạ đồng tu
Yêu người quý vật cho nhân loại đồng hưởng.
Nhân sĩ có Đạo - tâm thành lành trí
Đạo sĩ có Đạo - tâm tánh vô tư.
Vô tư là bậc Đạo Nhân
Vô tranh là hàng nhân ái.
Trời Lớn lấy không trung bao dung khắp cả
Đạo Lớn chứa Hư Không chứa hết tất cả.
Nhân sĩ phổ cái lòng nhân
Là thay Trời hành đức hiếu sinh.
Thượng nhân có thể ở trong lòng người
Và có thể ở trong lòng Trời.
Thượng sĩ có thể ở trong nhân của người
Và trong Đạo của Thần Tiên Thánh Phật.
Thượng trí dung chứa tuệ giác bao la
Như pháp thuỷ kết lại thành mây
Bay cao khắp trong thiên hạ
Soi thấu muôn nơi an nhiên tự tại.
Nó có thể làm mưa rửa bầu ô trược
Nó có thể làm sương đêm ban mãi không dừng
Cây cỏ xanh tươi vạn vật khôn lớn
Côn trùng sỏi đá cũng được thuần lương.
Cũng nhờ vào lòng nhân của người thượng sĩ.
Bậc thượng sĩ mở nguồn trí tuệ
Phổ lòng nhân mở rộng tình Trời
Sĩ phu là cột lớn nhà Trời
Là nhân sĩ vào đời tỉnh Đạo.
- Dũng sĩ được hưng thịnh:
Lấy trí dũng khai nguồn chơn lý
Thành một người dũng sĩ của Phật Gia.
Đạo Trời có muôn ngàn vị Hộ Pháp
Nhà Phật có hàng triệu A La Hán, Thanh Văn.
Lấy trí dũng để hàng ma chướng ngại
Vượt gian nguy đại dũng mới thành.
Ngả Phật có ba đường hiệp một thể Đạo:
Đại Từ Bi
Đại Trí Tuệ
Đại Dũng Lực.
Từ Bi là cái lòng nhân của người nhân sĩ
Trí Tuệ là thượng học của hàng trí sĩ
Dũng Lực là của bậc đại hùng, đại dũng sĩ.
Trời sanh nhân sĩ để làm phụ mẫu
Trời sanh trí sĩ để làm bậc sư phụ
Trời sanh dũng sĩ để làm bảo quốc an dân.
Trời lấy lòng dân để làm mẹ
Phật lấy trí tuệ để làm thầy
Người lấy dũng lực để rèn luyện.
Bậc trí dũng là hàng hộ pháp lớn
Vào Đạo thì an Đạo
Vào nhà thì an nhà
Vào quốc gia thì an nền xã tắc.
- Bậc dũng sĩ vào Đạo:
Lấy trí để học kinh văn
Lấy dũng để luyện lòng thành tín.
Nhân lớn lấy trung tín làm nền
Đạo Lớn lấy trí dũng làm lực.
Học dũng để rèn mình
Học dũng để rèn nhân.
Trí dũng nâng cao
Đạo đức thạnh vượng.
Đạo có hộ pháp để bảo trì
Quốc gia có quân đội để an dân
Con người có trí dũng mới thực hiện cái lòng phò Đạo an dân của mình.
Luyện Tánh sanh Dũng Lực
Luyện Dũng Lực sanh Từ Bi
Luyện Từ Bi sanh Trí Tuệ
Luyện Trí Tuệ để thành bậc Chân Nhân.
Các vị thành Đạo xưa nay là có đủ dũng lực để vượt Tam Đồ Khổ của Phật để thành Đạo.
- Dũng Trí luyện mình:
Gặp khổ thì cam chịu để rèn hạnh đức
Gặp khó thì chấp nhận để rèn đức nhẫn nại
Gặp nguy thì phò trợ để tỏ lên lòng thành tín
Gặp nghèo thì giúp đỡ để diệt lòng phân biệt
Gặp nạn thì vui để trả các chướng nghiệp
Gặp thiếu thì cho để thực hiện lòng từ bi.
Lòng thành không ngại khó
Dũng chí vượt gian nguy.
Bậc đại dũng trí có làm hàng nguyên soái, đại tướng của quốc gia hay trở thành những bậc chơn tu, cũng biết thực hiện:
Lấy lòng thành tín để dạy người
Lấy đức công bình để luyện Đạo
Lấy sự bao dung để tha độ người
Lấy thưởng thí tới người không ưa mình
Lấy lòng từ bi hoá giải các oan gia.
Kết bạn gieo nhân
Phò chung một Đạo.
Kết lý giao tình
Một Đạo đệ huynh.
Trí dũng để làm nên nghiệp cả
Để thành người phò bá Đạo Trời.
Người trung luyện dũng để thành Thần
Người trí luyện dũng để lập thân
Người Đạo luyện dũng để thành chánh quả.
Thầy đã giảng qua là dòng nước lớn, đó là lúc:
Quốc gia hưng thịnh
Lòng người thạnh phát.
2. Còn đến Lúc Nước Bình là lúc:
Thiên hạ Thái Bình
Muôn nơi thạnh trị.
Nước bình muôn vật đều yên
Thái Bình nhân loại hưởng phúc.
Lòng Thái, thanh nhẹ giữa Hư Không
Tâm Bình, an nhiên giữa đại chúng.
Người nhân sĩ an để dưỡng Đạo
Người trí sĩ an để dưỡng thần
Người đạo đức an để dưỡng nhân nghĩa
Người dũng sĩ an để thạnh trị.
- Người nhân sĩ an để dưỡng Đạo lúc nước bình.
Muốn rót cho đầy lòng nhân của thiên hạ
Trước phải biết tu dưỡng cho đầy lòng nhân của chính mình.
Muốn an việc của mỗi người
Trước phải biết luyện tới chỗ an lòng của mình.
Muốn cho mỗi mỗi an yên
Thì mình phải có đủ trí định huệ thì mới siêu thoát cho họ.
Bậc phụ mẫu chỉ biết an mình
Thì thiên hạ noi theo đó tự an.
Bậc phụ mẫu biết dạy mình
Thì lòng nhân tự giáo mà giác.
Bậc phụ mẫu biết nhún nhường
Thì mỗi người sẽ cảm đức, tự hoá giải.
Bậc phụ mẫu biết liêm chánh
Thì hàng thượng trí học theo đó mà hành độ.
Bậc phụ mẫu có đủ lòng vị tha
Thì hàng triệu thiện trí thức theo đó mà hành độ.
Cao nhân thượng học cao nhân trị
An yên tỉnh Đạo Thiên Lý giác.
Người thượng sĩ an được bao nhiêu
Thì Thiên Lý cung ứng xuống bấy nhiêu.
An nhiên là lối giải thoát của Tiên Gia
An phận là lối tu dưỡng của người có Đạo.
Lòng an nhiên Ma Lục Dục không sai
Tâm an phận Quỷ Vô Thường không phá.
Trí an tịnh là thoát ra lòng của thiên hạ
Thì đường Lục Đạo mới không sanh
Thì mới an định tinh thần của người tu Đạo.
- Lúc nước bình người trí sĩ an để dưỡng thần:
Đạo Lớn:
Lấy Đức làm nền
Lấy Đạo làm nhà
Lấy Thần làm chủ.
Dưỡng Đức, Thần minh
Dưỡng Thần, Đạo linh.
Ông chủ có linh thiêng
Thì muôn người thọ phước của Thượng Đế ban xuống nhân gian.
Chơn lý có linh thiêng
Thì mới làm sáng tỏ cho hàng thượng trí an Đạo.
Người tu có linh thiêng
Thì mới dấn thân phục vụ, hoàng dương Đạo Pháp. Tâm vô quái ngại hành độ không lời.
Chơn Nhân có linh thiêng
Thì mới đem phép lạ của Trời để ra cứu đời.
Thánh Nhân có linh thiêng
Thì mới đem nguồn trí tuệ viết thành kinh điển, văn chương, thơ phú để cứu đời.
Trí an để dưỡng tinh thần
Sĩ hiền đóng góp cao tầng đẹp xinh
Nước bình dưỡng Đạo được linh
Thánh Nhân mở nước trí nhân lập đời.
- Nước bình người đạo đức an để dưỡng Đạo:
Đạo an linh ứng bốn phương
Đức an nuôi dưỡng nhân loại.
Đạo của Thiên Tử được an
Bốn phương thiên hạ Thái Bình.
Đạo của khanh sĩ được an
Quốc gia có bậc phụ mẫu.
Đạo của hàng soái tướng được an
Quốc gia được thạnh trị.
Đạo của các tôn giáo được an
Trong nước có nền văn học rộng lớn.
Đạo của các tướng sĩ được an
Biên cương yên định bờ cõi.
Đạo của lòng dân được an
Thiên hạ nhân gian đoàn kết.
Đạo của người tu được an
Chơn lý phổ rộng truyền xa.
Học Đạo Thái Bình
Trước phải bình tâm mình.
Học Đạo trị an
Trước phải an tỉnh mình.
Học Đức an bang
Trước phải độ cho mình.
Nhân bình lấy đức để an
Đạo bình lấy độ lượng để dung chứa.
Trời an, ban khí linh cùng khắp
Đất an sanh hoá mãi không dừng
Nhân an tạo phúc lớn cho thiên hạ.
- Lúc nước bình người dũng sĩ an để thạnh trị:
Đạo Lớn không có biên giới
Đức Lớn không có biên cương
Nhân Lớn không có bờ cõi.
Người dũng sĩ ra đời an trị:
Trước phò Đạo lập thân
Sau dưỡng Đạo giải thoát.
Đạo Lớn không dùng sức người
Đức Lớn không dùng mưu trí
Nhân Lớn không dùng binh gia
Đó là cách an trị của người đại dũng.
- Dũng Lớn không dùng sức người:
Mà dùng sức của Trời để cảm hoá lòng nhân, mỗi mỗi theo Đạo để phò Cơ tải Đạo, và yêu nước mến dân trong tình con chung một mẹ.
- Dũng Lớn không dùng mưu trí:
Thành trụ hoại không là thế đi của Đạo
Bốn mùa tám tiết là thế chuyển của Đức
Nên hư thành bại là hoạ phúc của Nhân
Vạn sự để theo thế tự nhiên cho lòng người mến đức mà tự lập thân phận công danh.
- Dũng Lớn không dùng tới binh gia:
Đạo Lớn của Trời là Vô Danh Chi Bảo
Người có dũng lớn vì Đạo mà làm chớ lòng không cầu danh phận. Nên không muốn tranh danh đoạt lợi với ai. Trong ngoài vô tư trống rỗng.
Đức Lớn của hàng Tiên Phật là Vô Tranh Chi Giáo
Người có dũng lớn của hàng Đại Giác lại không muốn xâm lấn của người.
Tức là:
Bậc thượng đức không Đức
Nhờ không chấp vào nó mà không có lòng phàm.
Bậc thượng đức vô tranh
Nhờ không tranh mà cải tánh diệt danh thành Đạo.
Bậc thượng đức không cầu bổng lộc
Nhờ không cầu bổng lộc mà dạy người truyền đời.
- Nhân Lớn vô danh thị:
Bậc chí nhân quân tử
Không thích chiếm đoạt sở thích của người.
Bậc có lòng nhân từ thiện
Không thích đi vào chỗ thiện ác phân tranh.
Nhờ có đầy lòng vị tha mà họ không dùng tới binh lực để tương tàn sát phạt lẫn nhau.
Người trí dũng có lòng Bồ Tát
Bậc chí nhân có tánh Bồ Đề.
Không dùng binh gia, vì nhận thiên hạ là con một nhà
Không phân biệt, mới vào cõi đại hùng, đại lực.
Đó là hai phần Thầy dạy về nước lớn và nước bình.
Tiếp theo, Thầy sẽ dạy cho con về phần:
3. Lúc Nước Ròng.
Biển động để thử tài người lái
Đạo suy để đo lòng đạo đức của con người.
Nước loạn mới rõ bậc trung lương
Đời suy mới biết Đạo của hàng Bồ Tát.
Đạo loạn mới thấy hàng trí tuệ hành nghĩa
Thạnh suy mới thấy tài bậc anh hùng.
Gia bần mới tìm con hiếu thảo
Lúc nghèo mới tìm bậc tri kỷ.
Thời suy mới biết rõ lòng nhân
Lúc nghịch mới rõ lòng hàng tuấn kiệt.
Tri kỷ mà không tri bỉ
Không phải là hàng tri kỷ.
Đạo đức mà không có độ lượng
Là không phải hàng đạo đức.
Trung lương mà không bảo quốc an dân
Là không phải đạo của bậc thượng võ.
Trí tuệ không diệt lòng phân biệt
Chưa xứng chức của hàng Thanh Văn Duyên Giác.
Bồ Tát mà không có lòng nhân
Không phải là bậc Phụ Mẫu của thiên hạ.
Mỗi con người đều có sẵn chiếc thuyền tâm linh, đó là chơn tâm giác ngộ.
Bậc giác ngộ vào biển đời biết lái
Gặp sóng nghịch khảo biết chế để qua bờ Bỉ Ngạn để giải thoát vòng sanh tử.
Gặp sóng gió xuôi chiều thuận khảo phải biết tỉnh để độ người, giải mình để thoát cho người.
Đạo nghịch mới biết ai chơn chánh
Đời xuôi coi chừng khảo thuận chiều.
Lúc nước ròng đừng có vào sông
Ở biển lớn tự do thông thả.
Đạo suy để đo lòng đạo đức của con người.
Rủ nhau tụ hội cho đông
Đến khi mở hội xuồng rông không đầy.
Rủ nhau đóng hội đóng bè
Đến khi nước đổ xuồng ghe đâu rồi?
Lúc Đạo suy ai người minh trí
Bậc lào thông chơn lý ở đâu
Nước ròng đo được cạn sâu
Nhờ đây mà học một câu chơn tình.
Tiên Ông bảo:
Từ đây con nghiệm theo đó mà học làm người, và luôn nhớ nhập định thường xuyên dưỡng Đạo. Người tu luyện nên nhớ là suốt đời không quên thanh lọc cơ tạng và tu dưỡng đạo đức. Có thường tu con mới nắm vững được chơn lý mà tịnh mình để độ đời.
Từ ngày được Thầy dạy Đạo, anh Thật Khờ Dại được mở mang trí tuệ. Anh ở núi Tòng Sơn cùng Tiên Ông luyện Đạo học kinh văn không ngơi nghỉ. Vào những ngày rảnh, anh cùng đám cọp đi dạo khắp núi rừng.
Một hôm Sư Phụ cho phép anh xuống núi.
Anh từ giả Sư Phụ rồi cùng với bầy cọp đưa anh về lại căn nhà xưa và gặp lại anh Lòng Tham.
Anh Lòng Tham tưởng rằng anh Thật Khờ Dại đã chết từ lâu rồi, hôm nay oan hồn về báo oán, nên anh quỳ xuống khấn vái và nói rằng: "Đệ Thật Khờ Dại ơi, đệ sống khôn thác thiêng, vì tôi có lòng gian đoạt tài sản của đệ, những gì của đệ tôi xin giao trả lại, nhưng xin đệ tha cho mạng sống."
Anh Lòng Tham vừa lạy vừa khấn, rồi bỏ chạy đi trong sự hoảng hốt. Chạy được nửa đường thì gặp bầy cọp doạ.
Từ đó anh Thật Khờ Dại ở lại căn nhà xưa cùng với ao cá. Ngày ngày anh an dưỡng tịnh tu.
Thơ rằng
Không lòng thành Đạo mới hay
Thật là Khờ Dại Đạo Thầy mới linh
Vô tư ngộ Đạo trong mình
Bật cười thành Đạo Chơn Linh một nhà.
- Hết -
(Hết trang 103, trang cuối.)
(Tiếp trang 74.)
Lòng trống, tâm cho thanh, trí tịnh
Giữa dòng đời không nhiễm mới thảnh thơi.
Trong nguồn đục mà lọc trong Huệ Mạng
Mới là người tỏ sáng chỗ đại tu.
Ngày đêm ra sức công phu
Học kinh lý cho tỏ thông lối giải.
Người khôn ham tranh
Ta dại vô tranh.
Người khôn cầu danh
Ta dại vô danh.
Ai thích phân tranh
Đi đường đoạ lạc
Ta yên lòng Đạo
Học lý Hư Vô.
Một bước tu thân
Không màn khôn dại
Được thua thành bại
Chưa có ai hay.
Phật tu giả dại đạp mây
Mới mở huệ vào đời độ chúng.
Dại là thượng sách chơn tu nên áp dụng
Dại giữa đời sống đúng lương tri.
Người ra đời danh phận đua thi
Ta vào Đạo yên lòng giác ngộ.
Dại để tu đến chỗ
Tỏ Huyền Cơ mở lối Chí Nhân.
Dại để yên luyện thần
Xa khách động cho thân tu tỉnh.
Dại để diệt mùi chung đỉnh
Về Hư Vô ngâm vịnh học kinh.
Dại để biết tu cho chính mình
Cửa giải thoát mới linh Chơn Pháp.
Khôn động trí tuệ che tối
Dại tịnh trí tuệ mở lối.
Khôn tranh, sanh tâm chúng sanh
Dại vô tranh, sanh Kim Thân Phật Tử.
Khôn chê hiền ghét dữ
Dại không chánh không tà.
Trong thâu hết tâm ma
Ngoài Ngũ Quan bế động.
Ở đời mà không động
Mới là dại Chân Nhân.
Ai cao ta học để luyện thân
Ai dại ta tới lui làm bạn.
Cửa Thánh vườn Đạo kết bạn
Lòng nhân việc nghĩa trợ phò.
Trồng cây ngô đồng giữa rừng tòng bách
Hái trái Đạo Tiên hương vị thơm xa.
Sống nơi công cộng hiệp hoà
Ai chê ta dại mà lòng thảnh thơi.
Chân Nhân làm bạn
Học chỗ Huyền Cơ.
Học nguồn văn thơ
Truy ra mạch lý.
Lên tới đầu nguồn
Rõ tánh Như Lai.
Dại ngoài khôn trong thoát vòng khổ ải
Dại trong khôn ngoài đi ngả luân hồi.
Hơn họ một lời gây thêm phiền toái
Thua họ một lời thật Đạo Vô Thinh.
Vô Thinh Chi Giáo
Chỉ Đạo Càn Khôn
Chơn lý vô ngôn
Dại là thượng sách.
Vào làm người lương tâm ai cũng rách
Tranh đoạt cho nhiều muôn thuở trầm luân.
Ngộ pháp giả dại để tu chơn
Học Đạo yên thân là thượng sách.
Từ đây con nên học theo cách nầy, làm việc và học Đạo.
Anh Thật Khờ Dại rất vui mừng. Vì:
Nhờ thật khờ mới tỏ thiên chân
Nhờ thật dại mới ngộ Tiên căn đắc Pháp.
Dại lợi danh thoát vòng tranh đoạt
Khờ tỉnh tu mới ngộ chơn khờ.
Người trí diệt trí mới sanh huệ
Người thông minh diệt thông minh mới sanh giác.
Người khôn diệt khôn mới an thần
Người giàu diệt lòng tham mới định trí.
Người có danh phận diệt danh phận mới yên thân
Người nhân nghĩa diệt tà chánh mới tỏ Đạo.
Người phân biệt diệt thiện ác mới thông minh
Người hiền nhân bỏ tâm chấp trước mới ngộ Đạo.
Người phú quý bỏ chỗ nhàn cư mới thông lý Đạo
Người vinh hoa phải bỏ tánh hưởng lạc mới thông minh.
Học đến đây mới thấy dại đời là thượng sách
Dại để mình thành Đạo mới là khôn.
Khờ học Đạo không gây chướng nghiệp
Thông minh đời càng vướng trở ngăn
Mùi phú quý tranh mãi chẳng nhàn thân
Khờ mới thoát dây tử thần nghiệp quả.
Tiên Ông hàng tuần dạy Đạo cho đệ tử Thật Khờ Dại của ông. Những ngày rảnh thầy trò cùng ngao du sơn thuỷ.
Hái trái rừng những lúc đói lòng
Uống suối mát đỡ cơn khát dạ.
Rừng núi bao la
Xem coi cảnh lạ.
Ngày làm bạn với thú linh
Đêm ngắm sao trời soi trí tuệ.
Lòng cho trống mới làm con Thượng Đế
Ngắm cảnh Thiên Không soi tỏ trí thiền.
Có học đến đây mới thấu Đạo Tiên
Mượn cảnh tịnh để thâu đơn đắc Pháp.
Tiên Ông tiếp tục dạy Đạo cho anh Thật Khờ Dại, để cho anh thấu hiểu được luật của Đạo và ba dòng nước.
(Hết trang 78.)
(Tiếp đầu trang 65.)
BA DÒNG NƯỚC
***
Ngày xưa, có hai vợ chồng ngư gia, nhà có một hồ cá chép thật lớn. Hằng ngày hai vợ chồng bán cá để nuôi thân.
Một hôm, hai vợ chồng nằm chiêm bao thấy một vị Tiên Ông râu tóc bạc phơ, và dắt theo một đệ tử đến gởi cho hai vợ chồng vị ngư gia. Khi tỉnh dậy, hai ông bà rất vui mừng. Từ đó bà thụ thai và sanh ra một đứa con trai khôi ngô tuấn tú. Đứa bé mang một bẩm tánh Thật Khờ Dại. Hai ông bà nuôi đứa bé cho tới được hai mươi tuổi, thì ông lẫn bà bị cảm gió qua đời. Từ đó chàng trai Thật Khờ Dại ở lại giữ ao cá và sanh sống bình thản.
Vào một hôm đẹp trời, có anh tên là Lòng Tham rủ một số bạn đến kết nghĩa với anh Thật Khờ Dại. Rồi ngày qua ngày, cũng nhờ ao cá mà cùng sanh sống.
Anh Lòng Tham lại sanh lòng chiếm đoạt nên bàn với số bạn lập kế chiếm giữ ao cá của anh Thật Khờ Dại mà khỏi phải trả tiền. Nên mỗi ngày cứ vào buổi ăn chiều, anh Lòng Tham kể cho anh Thật Khờ Dại nghe, là anh ta cũng có một hồ cá thật lớn, lúc thiếu tiền, anh ta chỉ cần câu hai con là bán đủ sống cho tới cả tháng, khỏi phải làm nhọc sức như ở đây.
Anh Thật Khờ Dại mới hỏi hồ cá ấy ở đâu và có nuôi những loại cá gì. Thì anh Lòng Tham bảo, hồ cá đó nằm ở vùng núi Tòng Sơn. Và cá ở đó có loại đầu rồng mình cá, có loại đầu phượng đuôi rồng, và còn có loại đầu lân đuôi phượng, trông rất đẹp mắt.
Anh Thật Khờ Dại tưởng thật, lại hỏi anh Lòng Tham có cách nào vào đó để sống hay không.
Anh Lòng Tham nói: "Có chứ. Nếu muốn, hiền đệ để cái ao cá nầy lại cho huynh, thì huynh sẽ giao hồ cá đó lại cho đệ."
Anh Thật Khờ Dại đồng ý giao ao cá của mình lại cho sư huynh, rồi thu xếp lên đường về núi Tòng Sơn sinh sống.
Anh Lòng Tham biết ở trên Tòng Sơn là nơi đầy dẫy cọp beo, khi anh Thật Khờ Dại lên tới đó chắc chắn là sẽ bỏ mạng, thì hồ cá nầy chắc chắn là thuộc về của mình. Nên sau khi anh Thật Khờ Dại đi rồi, anh Lòng Tham bắt thật nhiều cá bán cho có nhiều tiền, để trang hoàng nhà cửa, đón rước bạn bè, ăn chơi thoả thích.
Còn anh Thật Khờ Dại cố gắng vào núi Tòng Sơn. Anh leo được nửa núi, thì thấy năm con cọp dưới núi đi lên. Lúc nầy anh hết đường xuống núi, nên đành cố sức lên đến ngọn núi. Anh đi đến chiều thì gặp được một vị Tiên Ông ra đón về hang động, và năm con cọp cũng theo Tiên Ông về hang động an nghỉ.
Sáng hôm sau, Tiên Ông dẫn anh Thật Khờ Dại ra câu cá ở hồ Tòng Sơn. Anh câu được cá chép, nhưng chẳng thấy có những loại cá như anh Lòng Tham đã nói.
Anh ta mới hỏi Tiên Ông: "Tại sao ở đây không có cá đầu rồng?"
Tiên Ông đáp: "Làm gì trong nhân gian nầy có cá đầu rồng, chỉ ở trên hồ Trời mới có mà thôi."
Từ đó anh Thật Khờ Dại biết mình bị gạt, nên xin Tiên Ông ở lại đó tu Đạo.
Tiên Ông bảo: "Đạo của ta chỉ dạy cho người phải thật thà khờ dại, được như vậy thì ta mới nhận làm đệ tử của Tiên Gia."
Anh Thật Khờ Dại mới hỏi: "Tại sao kỳ vậy?"
Tiên Ông giải thích:
- Vì người thật người, họ rất thật thà. Dạy một học một, học mười tập mười. Vì nó:
Lòng không tham cầu
Nên sanh được tánh vô tư.
- Người luyện Đạo mà được tánh vô tư
Là đi tới cái nhân lành tột phẩm.
- Người học Đạo mà có tánh thật thà
Luôn biết kính thầy, quý bạn, trọng người quý vật, tinh thần không bị trí phàm che đậy, nên học Đạo Lý dễ thông suốt.
- Người thật thà
Không muốn hơn người
Kết giao bằng hửu.
Không buồn khi thua người
Kết thân để học tập.
Không nản chí lúc gặp khó khăn
Càng khó họ càng có nhẫn lực.
Không bỏ vỡ Đạo nửa đường
Càng tu càng trau giồi trí tuệ.
Không chạy theo thị hiếu phỉnh dỗ
Một lòng tu dưỡng cho tới thành Đạo.
Không sanh tâm phân biệt
Lòng không chứa ma chướng.
Cõi Trời chơn thật
Thần Thánh Tiên Phật sống chung.
Trên dạy Đạo thật chơn
Dưới thật lòng học tập.
Thầy thật tình bày chỗ Huyền Cơ
Trò thật dạ ra công tu dưỡng.
Người trên hướng thượng
Người dưới đồng thanh.
Trước sau bày tỏ tấm lòng thành
Dưới trên hoà thuận cùng tu Đạo.
- Thầy thật thầy
Là bậc Chơn Nhơn Đại Giác
Giải thoát rồi chỉ ngỏ đám môn sinh
Thầy luôn giữ Đạo cho mình
Bậc giác ngộ tuỳ duyên mà dạy dỗ.
- Trò thật trò
Tu chỉnh cho chính mình trước đã
Giải thoát mình rồi mới độ tha
Trước thanh tâm hàng phục Sáu Ma
Sau diệt đám Thất Tình cám dỗ.
Vượt qua biển khổ
Mới bàn việc độ đời.
Người thật tình dễ đoạt Đạo Trời
Vì lòng Đạo trước sau chơn chánh.
Thật lòng tu mở đường cứu cánh
Bậc siêu nhân thương đứa thật lòng.
Khách đời chê dốt bỏ bên dòng
Lòng Đạo khen sạch ít đóng rong.
Vì vậy mà Thầy thích nhận đứa khờ dại, thật lòng cầu Đạo tu thân, hơn là đứa tranh tu loạn Đạo.
Thật khờ dại Đạo tâm không tranh cãi
Học rồi hành, hành mãi không ngưng.
Thà khờ đời cho đạo đức chấn hưng
Trống lòng dục dễ sanh Tiên Mạng.
Khờ thật khờ Thánh Nhân kết bạn
Nhờ thật khờ độ lượng bao dung.
Đứng trên cao không có tranh hùng
Lo luyện tập thành nhân đắc pháp.
Xuống giữa thế lòng nhân bủa khắp
Đem trí khờ phả lấp phân tranh.
Khờ mà biết giữ Đạo cho thanh
Khờ mà biết buông bỏ đấu tranh giành giựt.
Khờ như vậy mới vào tâm định
Mở ra vòng Thiên Kính Vô Vi.
Hơn người cũng chẳng được việc gì
Thua người cũng chỉ chừng đó việc.
Khờ cho chết cái lòng phân biệt
Diệt tâm ma cho chơn ngã nó sanh.
Khờ mà biết nhập thất tu thanh
Đạo thành nhờ khờ mà đắc Thánh.
Khờ giữa đời xa lòng tranh cạnh
Cho nhơn tâm soi thấu Hư Vô.
Thật lòng tu cần giữ Đạo Khờ
Vô phiền muộn mới minh Đạo Pháp.
Khờ dễ vượt qua vòng bão táp
Bậc khôn lanh đoạ giữa đường trần.
Từ xưa nay Lục Đạo xoay vần
Biết bao bậc khôn lanh đoạ lạc.
Khờ biết Đạo lánh xa tội ác
Thoát vòng mê thị hiếu đua chen.
Đêm tham thiền, ngày dưỡng Đạo cho quen
Chuyện chi tới, xuôi cho khoẻ trí.
Người khôn tỷ thí
Mình khờ chịu thua
Nhẹ lòng ganh đua
Đi về bờ giác.
Xưa nhiều bậc công hầu tế thế
Làm nên lịch sử cho cả thiên hạ.
Rồi về yên ẩn giữa thanh sơn
Dùng Đạo Khờ luyện tánh Chơn Nhơn.
Phú quý vinh hoa lòng khờ không động
Khờ thật khờ nó chẳng nhiễm trần.
Khờ mà học được Đạo Chơn Nhơn
Khờ như vậy là khôn mối Đạo.
Khờ học Đạo lánh xa huyên náo
Tịnh lòng trần cho Đạo được linh.
Đời có trách vô minh, ta lặng tiếng
Đạo có trách khờ ngu, vẫn im hơi.
Đã học khờ buông bỏ lòng đời
Tâm trí tuệ vô tư nó khởi.
Học Đạo giữa Trời thoát xa nhân nghĩa
Luyện Đạo giả khờ cho trí tâm yên.
Khờ như vậy mới vào Đạo Tiên Thiên
Lái thuyền pháp vào miền Cực Lạc.
Mở trí tuệ học nguồn uyên bác
Khai huệ tâm tỏ chỗ trúc cơ.
Luyện Đạo như thằng khờ
Qua bên bờ Bỉ Ngạn
Nhìn xuống lại dòng đời
Trông quả đất màu xanh.
Nay chuyển mai luân theo dòng định mệnh
Xuôi chạy con người tham dục mê tâm.
Khờ giữa đời yên phận diệt danh
Thấy danh lợi không lòng tranh đoạt.
Trời cho sao, an phận thủ thường
Đạo đến đâu tuỳ duyên truy học.
Xa bạn xấu cho tâm an trí lọc
Kết duyên hiền học chỗ cao siêu.
Năm tháng qua mau, học theo thời đại
Mà giữ lòng tu giải thoát không ngơi.
- Người có tâm tánh thật khờ dại:
Dại đời khôn Đạo mới là thượng trí
Khôn đời dại Đạo là bậc phàm nhân.
Khôn Ma lường gạt khắp biển trần
Dây oan trái kết hoài không ngưng nghỉ.
Khôn Quỷ sanh ra lòng tà mị
Kẻ kéo người giành muôn đường đoạ lạc.
Thà giả dại cho thoát vòng phàm tục
Buông phàm tâm cho nhẹ dạ chơn tu.
Diệt phân biệt mới dứt vui buồn
Dại như vậy mới là chơn định.
(Hết trang 73.)
(Tiếp theo trang 61.)
12. Định huệ dường như không định huệ.
Tu đến chỗ lòng Trời, thì tâm người có Đạo đã dâng trọn mười phần cho Trời. Việc mình làm là Trời cảm ứng cho làm. Dù có làm cho cả thiên hạ, mà vẫn như không có làm.
Biết tới chỗ cùng tột
Thì việc thiên hạ do Trời làm.
Tu đến chỗ cùng tột
Biết mà không dám làm trái ý Trời.
Được thông suốt thì lại huyền ẩn
Được huyền ẩn thì lại đại định.
Được đại định thì thông suốt trí tuệ
Được thông suốt trí tuệ thì lại vô tư.
Chưa đầy càng lắc càng kêu to
Đầy rồi càng lắc càng sợ tràn.
Thùng rỗng kêu to vang xa
Đạo đầy yên lặng tịch diệt.
Yên lặng tới chỗ tịch diệt
Là vào Đạo Lớn định huệ.
Mở Thiên Tâm không muốn Đạo tràn ra
Thấu Pháp Giới muốn ẩn yên luyện Đạo.
Trống lớn kêu to
Bên trong trống rỗng.
Đạo Lớn yên ẩn
Tịch lặng tràn đầy.
Người chưa biết Đạo
Cho mình là biết.
Khi đã biết Đạo, đầy rồi
Cho mình không biết.
Đạo Gia đức lớn không để tràn
Tiên Gia đức lớn sống thanh nhàn.
Đức lớn hình như không đức
Vì không thấy nó đi nhận công, giành đức.
Trí tuệ dường như không có trí tuệ
Vì không thấy nó ra tranh đoạt.
13. Thông suốt dường như không thông suốt.
Biết Đạo Lớn là ngộ Không
Thì không dùng lời để dạy.
Biết được Đức Lớn là tịnh yên
Tuỳ đời hoá độ nhân duyên.
Trời lấy thông suốt để hành Đạo
Các vị Thiên Tôn chưởng giáo mỗi mỗi
Đồng thanh tương ứng theo lòng Trời
Đồng khí an dưỡng theo Đạo Trời.
Mặt trăng, mặt trời, và các hàng tinh tú
Di chuyển đồng nhất theo sự thông suốt của Đạo Trời.
Phật Lớn trí tuệ thông suốt,
Là Nhà Đại Bác Học ở giữa lòng Trời, văn minh không lường, Đạo cao vô tận. Nên Ngài phát minh vạn sự trên đời không ngừng nghỉ mà không nhận mình đã phát minh ra. Vô thinh lặng lẽ mà làm chủ cả thiên hạ.
Biết được cõi không ai biết
Mà giả như người không biết.
Biết nhiều học thanh khiết
Thanh khiết để thành nhà minh triết.
Minh triết mà dường như không biết
Mới hiệp với bậc Đại Kiết Thiết.
14. Giải thoát dường như chưa giải thoát.
Đem Đạo vào đời là hạnh của người đạt Đạo
Làm việc học việc là nhân của người biết dụng Đạo.
Dụng Đạo Lớn phổ rộng trong lòng người
Tầm Nhân Lớn thường đem Đạo vào Đời.
Nhân Lớn giải thoát cái lòng tư dục
Đạo Lớn giải thoát cái tâm thiện ác
Đức Lớn giải thoát cái địa vị chánh tà.
Giải thoát được Tam Tâm Ma thì không còn muốn vào chỗ tranh danh đoạt Đạo.
Giải được tâm phàm
Thiên chân tỏ sáng.
Giải được lòng tham
Nhân nghĩa hiệp về.
Vào trần tỉnh đường mê
Vào Đạo biết đường giải thoát.
Muốn giải thoát cho người
Trước giải thoát cho mình.
Muốn tha độ cứu người
Trước tự độ cứu mình.
Cứu mình thì nhân loại được cứu
Giải thoát cho mình được là giải thoát cho người.
***
(Hết trang 64.)
(Tiếp đầu trang 55.)
9. Bậc ngộ Đạo dường như chưa ngộ.
Ông Lục Tổ Huệ Năng ngộ Đạo Lớn. Được thầy Truyền Tổ mà không đúng thời kỳ, nên ông phải vào ở chung với đám thợ săn, giả ra như một người không biết Đạo, để an dưỡng qua ngày.
Như ông Khương Thượng, đã ngộ được Đạo Lớn mà vẫn sống vui với cảnh núi rừng, ngồi câu sông Vị để đợi cái Thiên Lý của Trời ứng hiệp.
Đạo Lớn suốt thông
Chờ Hoá Công vận chuyển.
Đạo Lớn hiệp Không
Vào thế vô tư chí công.
Người ngộ Đạo vì Đạo
Mà quên việc có mình.
Người ngộ Đạo hành Đạo
Theo Thiên Lý quang minh.
10. Bậc thành Đạo dường như chưa thành.
Vào Đạo tỉnh Đạo
Vào đời tỉnh đời
Vào động tỉnh động
Vào thanh tỉnh thanh.
Chơn Nhơn học Đạo Kinh
Thường khai minh thiền giác.
Vào thế xem nhẹ vinh nhục
Trước sau phò Đạo, trung nghĩa.
Thiên Lý có một tình
Chơn Nhơn có Phật Tánh.
Đạo ban sơ tình yêu Vô Thượng
Người Chân Nhân sống giữa biển yêu.
Yêu thanh tịnh giữ tròn chung đỉnh
Thuỷ nhất chung tròn Đạo nhất tâm.
Chơn Nhân sống huyền tâm
Hoà vào Đại Vũ Trụ.
Đạo Chơn Nhân hiệp tình Hoàn Vũ
Tình Chơn Nhân hiệp Đạo Hư Không.
Có Không, Đạo trống lòng
Không Có, đời vô ngã.
Chuyện thế Đạo không hình
Về hiệp nơi không bóng.
Luyện Chơn Nhân không động
Thành Đạo như Không Không.
Tứ Quý xoay tròn mở Lục Thân
Tam Hoa trụ đảnh ngộ tinh thần
Chơn Nhân sống lại quang thân ngự
Hiển Thánh độ đời gọi Thánh Nhân.
Như Đức Thích Ca Mâu Ni, Ngài là bậc thành Đạo, hoàn toàn giác ngộ, mà chưa dám khẳng định sự trí tuệ của Ngài, để chỉ định người truyền đời phổ truyền Phật Pháp. Ngài mượn ngày hội Nhiên Đăng vào đêm rằm, lấy trăng mà thuyết giảng cho hàng môn đệ, chỉ trăng để khai trí tuệ cho bậc giác ngộ. May thay ông Ca Diếp thấu ngộ được chỗ mật pháp của thời kỳ trăng hạ huyền và thượng huyền, mà tìm ra ngày Âm Dương giao cảm để tu dưỡng đắc ngộ Đạo Pháp. Lúc đó Đức Phật chỉ trăng mà ông Ca Diếp cười to và làm bài thơ rằng:
Thiên Địa quy thanh
Âm Dương hội thành
Vòng ô hai tám
Thì đắc trường sanh.
Ông Ca Diếp ngâm xong bốn câu thơ. Đức Phật biết là bậc liễu ngộ, nên Truyền Đời cho ông.
Đạo của người xưa xử thế là gương sáng muôn thuở lưu truyền. Đó là cách thành Đạo dường như chưa thành.
Đạo Gia có câu:
Lưng thì chế cho đầy
Đầy đừng để cho tràn.
Đạo tỉnh giữ bình tâm lặng trí
Nhiếp tâm như giữ thuỷ trong bình.
Tu thanh đến vô cùng là không động
Tu tới vô cùng là Chơn Tịnh.
Thành Đạo không tranh
Vô danh tịch diệt.
Là bậc minh triết
Mắt lấp tai ngơ
Dù thấy vị lai
Đừng truy quá khứ.
Lấy nhân duyên khai mở nhân duyên
Lấy quần chúng độ cho quần chúng.
Trung Dung thường áp dụng
Thành Đạo như chưa thành.
11. Trí tuệ dường như không trí tuệ.
Biết được vị lai
Tỏ thông quá khứ
Mà vẫn bình thản vô tư trước luật Trời Đất.
Tỏ được bổn lai
Nhận được diện mục
Mà lại hoà hài thanh thản giữ sự quân bình.
Tri được Nguồn Không
Hiệp được Nhất Nguyên
Mà vui thú với cảnh của thiên nhiên.
Ông Hoàng Thạch Công, là nhà trí tuệ Tiên Đạo, muốn vào đời thâu nhận một môn đệ. Ngày ngày ông dùng hết cách nầy đến cách nọ để thử người và tầm bậc có duyên. Một hôm, ông đang ngồi trên cầu gặp Trương Lương đi qua. Ông giả đò làm rớt chiếc giày bên trái xuống dòng suối, Trương Lương thấy vậy đi xuống nhặt cho ông. Ông lại làm rớt luôn chiếc giày bên phải, Trương Lương cũng cố gắng nhặt luôn chiếc giày bên phải đưa cho ông. Ông lại giả trợt chân rớt cả đôi giày xuống suối, Trương Lương vẫn kiên trì đi lượm và phơi khô rồi giao lại cho ông. Ông Hoàng Thạch Công từ đó mới dạy cho Trương Lương cái Tiên Đạo mật pháp. Sau Trương Lương được thành Tiên đắc Đạo.
Biển sâu phải dò mới biết độ sâu
Người trí phải đo mới biết thượng trí.
Lấy nghịch cảnh để đo hàng thượng trí
Nhồi để đo đức độ bậc chơn tu.
Đạo cao càng nhồi càng tỉnh
Trí tuệ càng khó càng minh.
Muốn đo lòng bậc thượng trí
Phải vào tột động của nhân sanh.
Như viên ngọc rớt xuống bùn
Đem lau sạch tự nhiên sáng lại.
Như người có trí có bị lem luốc, đời bôi nhọ cho dơ
Nhưng vật tinh khiết vẫn là tinh khiết.
Đạo cao nhân duyên Trời Đất hiệp
Trí tuệ tầm bậc đại nhân duyên.
(Hết trang 60.)
(Tiếp theo trang 42.)
5. Độ người dường như không độ.
Sự sáng suốt giảng ra cho người cảm nhận
Rồi tự bản thân từ độ lấy mình.
Kinh điển viết ra cho người đồng học
Rồi mỗi người tự biết tu cho mình và hành độ cho đời.
Chơn lý chỉ rõ
Mỗi chỗ giải thoát
Mỗi người giác ngộ
Tự mình hành độ.
Chớ không gom người tụ chúng
Vô tư rồi lại chí vô tư.
Đem Đạo Pháp vào đời hướng Đạo
Cho mỗi người thức Đạo
Rồi tự họ đem chơn lý truyền cho người kế tiếp.
Mình tu cho người kế tiếp được tu
Mình hành cho người kế tiếp được thực hành.
Chơn lý sáng soi độ cho tất cả
Lòng Đạo do Trời siêu nhiên truyền bá.
Lòng chí công không nghĩ việc mình làm
Lòng vô tư do Trời chuyển thiên hạ.
Học Đạo Chơn Không của Như Lai
Còn theo nhơn ngã, còn ngoài đường tu.
Học Đạo giác ngộ tự hành
Không theo quần chúng mà sanh chánh tà
Cả hai chẳng phải Đạo Gia
Đạo Gia không chánh không tà khai minh.
Đạo đâu? Đạo ở trong mình
Có tâm có pháp năng hành thì vô
Vượt qua Thiên Lý trường đồ
Đi vào Đại Định Hư Vô nhẹ nhàng.
Độ mà không độ mới sang
Tu hành không động mới an tâm thiền.
Ra vào các cõi siêu nhiên
Học thêm tâm pháp bí truyền Như Lai.
6. Hành Đạo dường như không hành.
Ai sáng, thì khêu trí tuệ cho họ được sáng thêm.
Ai yếu, thì nâng đỡ cho họ được linh diệu.
Ai mở Huyền Cơ, thì dạy chỗ mật ngôn linh khiếu.
Ai hay, thì học tập để cải hoá tánh trần.
Hay cầu học cho tâm Đạo khai minh
Dỡ cải sửa cho chơn tâm an định.
Xưa kia các bậc Chơn Nhân độ người bằng cách giả điên, khùng, ăn uống say sưa, nhưng mà:
Nói ra không thiếu một lời
Ứng đối không dư một chữ.
Rồi cũng có những bậc chơn nhân giả ăn xin, ăn mày, vào nhà các bậc đại căn, thiện trí thức, để nói vài câu chuyện làm sáng cái đức của đời mà tỉnh Đạo của người.
Nhờ giả ngu mà tỉnh hàng trí tuệ
Nhờ giả ăn mày để giác độ Chơn Căn.
Lam lũ giữa đường trần
Để tìm bậc đại căn.
Cam khổ giữa đường trần
Để yên cái Đạo Chơn Nhân.
Các vị Chơn Nhân, xưa thông suốt, trí tuệ, mà lại giả ngu, quần áo lem luốc để vào đời tầm kẻ sĩ có duyên
Nói hát huyên thuyên
Cười to lớn tiếng
Là muốn độ người trung chánh thành Tiên.
Đời nay, Kim Thân Bồ Tát Di Lạc cũng vào đời, đi theo đường của các bậc Chân Nhân để hành độ.
Ăn mà dường như hoàng sanh cứu tử
Ở mà dường như tụ khí hoá của Trời
Mặc áo đời cho hiệp thế văn minh
Đi như khách bộ hành du lịch.
Giả dại để đo lòng khách Đạo
Nói khôn để tỉnh bậc có căn cao.
Giả ăn để cải sửa người mê chấp
Giả uống để biết tánh đứa tu chơn.
Giả làm ngơ để đo lòng thiện trí thức
Giả nói cười để tỉnh đứa có duyên.
Người khôn thì nói Ông Đạo Điên
Kẻ dại cho là Đạo Tà vậy.
Cả hai có mắt mà không thấy Đạo Gia
Có tai mà không nghe được chơn ngôn của Phật.
Thật là tiếc cho kẻ biết công phu mà chưa tỏ ngộ
Thật buồn giùm hàng đạo đức thiếu nhân duyên.
Hành Đạo cách nầy dường như không hành
Độ đời cách nầy dường như không độ.
Ai bậc có duyên
Tự nhiên liễu ngộ.
Liễu ngộ tự mình hành
Ngộ pháp nhờ lòng thành.
7. Trời sáng dường như không động.
Mặt nhật chiếu sáng bốn phương
Thiên hạ theo cái sáng mà động tịnh
Khi ánh sáng lớn rộng dường như không động.
Bậc trí tuệ thông suốt đạo đức
Mà không vào đời tương tranh đạo đức với ai
Chỉ cầu Đạo giải thoát độ tha hoàng sanh độ chúng.
Thuận thời thì khai sáng cho đời
Nghịch thời thì non Tiên nhàn Đạo.
Bậc đại giác vượt khỏi động tịnh
Hàng đạo đức vượt chỗ buộc mình.
Bậc thượng học học cõi vô hình
Hàng thượng trí lánh đời luyện Đạo.
Bậc nhân sĩ công đức tỉnh mình
Hàng tu thân ngộ Đạo ở trong mình.
Vào trong vạn sự tịnh tịnh
Ra ngoài vạn vật động động.
- Vào đời không động là nhờ lòng trống tâm thanh, cứu khổ ban vui trong tình Trời rộng lớn.
- Vào học Đạo không động là nhờ quán thông được thiện lẫn ác, mà không nhiễm vào nó.
- Vào nhân nghĩa không động là nhờ vào chỗ minh tâm kiến tánh, mới đi hành độ lợi tha.
- Vào trường công danh không động là nhờ tỏ ngộ được Đạo Lớn của Trời.
Đó là cái sáng cùng với Trời Phật, thượng nhân, mà lòng dường như không động là vậy.
8. Trăng tỏ dường như chưa tỏ.
Đức sáng của mặt trăng là sáng tối mỗi chu kỳ Thành Trụ Hoại Không, bốn thời bằng nhau.
- Trăng thượng huyền
- Trăng hạ huyền
- Thời kỳ tối yên
- Thời kỳ tròn khiết
a. Trăng thượng huyền: Là từ thời kỳ trăng mới tượng hình và đi lên cho tới chỗ tròn đầy.
- Người xử theo thượng trí là:
Đạo Lớn hướng thanh
Tròn đầy vừa đủ.
Lúc thạnh phát biết vun bồi sự thạnh phát
Lúc gặp thời biết kiến trúc tân trang
Lúc giàu sang biết nâng hàng hiền sĩ
Lúc phú quý biết phổ Đạo lợi tha
Lúc vinh hoa biết thưởng hàng tuấn kiệt.
Để cho nhân lớn xuôi thuận theo lòng Trời
Để cho thiên hạ Thái Bình trăm họ.
b. Thời kỳ trăng hạ huyền: Là từ thời kỳ tròn đầy rồi mờ dần đi đến đen tối.
- Người đã tỏ sáng trí tuệ mà chưa gặp thời:
Lánh mặt chốn lầu hoa
Vào non bồng dưỡng Đạo.
Giả ngu trước Bá Đạo
Làm một gả vô danh.
Ăn ở không rách, không lành
Luôn giữ vô tranh học Đạo.
Thời suy, Ma Lục Dục thường hay khảo đảo
Lúc hèn, Quỷ Vô Thường bôi nhọ bốn phương.
Trăng tối, biết ẩn giữa thiên nhiên
Người chưa đến lúc, ẩn yên để tỉnh Đạo.
Xưa kia Hàn Tín, lúc tối, biết lòn trôn giữa chợ cho hàng khanh sĩ khen chê. Nhưng lúc hưng thời làm nên hàng đại trí, phò Lưu Bang lập nghiệp cho Hán Triều.
Xưa Trương Lương, Đạo Tiên thông suốt, theo mệnh Trời ra giúp Lưu Bang
Trên phò vương tải Đạo
Dưới an định chư hầu
Lúc nhà Hán an định được rồi, thì người lại treo ấn công hầu, từ quan Hán Thất.
Lui bước danh sư
Cho nhẹ gánh công hầu khanh tướng.
Lui bước khanh tài
Để yên Đạo giữa rừng thiêng.
Đây là bậc công thành thân thoái
Đây là hàng đạo đức biết yên thân.
Lòng tịnh sóng trần không động
Tâm an vạn sự Thái Không.
Biển Bắc, Hồ Tây
Vân du tứ hải
Trời Nam, Đông Độ
Thoả chí tung mây.
Đạo của hàng thượng đức là:
Được mà không tranh
Thành lại vô danh.
Không tranh sống trong lòng thiên hạ
Vô danh sống giữa lòng Trời Thiêng.
Người học Đạo Tiên
Tránh xa đời phiền nhiễm.
Người có Căn Tiên
Tự học chỗ Đạo Lý siêu nhiên.
Đó là cách yên mình lúc không gặp thời
Đây là đường biết che mình không sáng tối.
Trăng còn ẩn giữa siêu nhiên
Đến khi tỏ rạng cầu Thiên trải dài
Nước ròng, nước lớn xưa nay
Dạy hàng thượng trí anh tài tuỳ cơ.
c. Thời kỳ trăng tối yên:
Đạo đức sáng mà biết sống yên trong tối, đó là ông Văn Vương đời nhà Châu. Ông bị Trụ Vương nhốt trong dũ lý bảy năm dài, mà không trách Trụ Vương một lời. Ông mượn thời gian trong dũ lý để học Dịch Lý, từ Hà Đồ Thượng Thiên Bát Quái mà biến số ra thành sáu mươi bốn quẻ Lạc Thơ.
Sống giữa sói lang
Lòng luôn tu tỉnh.
Sống giữa hang hùm
Lòng học Đạo vô tư.
Kẻ lấn người chen mưu đồ bá nghiệp
Bậc thiên tài vẫn im tiếng lặng hơi.
Ngày đêm tịnh dưỡng để chờ cái sáng của Trời
Giao tiếp biết kềm lời, nói năng biết giữ Đạo.
Đợi thời như cách nầy, lửa cháy ruột mềm
Ẩn nhẫn như cách này, nước chảy đá mòn.
Hàng đạo đức xử trí là biết:
Yên mình để tỉnh lòng thiên hạ
Thanh tâm cho họ rửa sạch lòng phàm.
Đó là cách Chí Nhân hành Đạo
Đó là đường Chí Thánh đợi thời.
Bóng tối không che được lòng người có Đạo
Thời gian không xô ngã hàng đạo đức tu thân.
Ẩn nhẫn giữa các đường trần
Là cách tu thân cao nhất.
Khi xưa, Đức Lục Tổ Huệ Năng ngộ Đạo, mà viết lên bốn câu thơ trên vách tường để đáp lại bốn câu thơ của ông Thần Tú đã viết sẵn.
Thần Tú viết:
Tâm như Bồ Đề thụ
Tánh như Minh Kính Đài
Ngày ngày thường phát thức
Giờ giờ lo lau chùi.
Lục tổ Huệ Năng đáp lại:
Bồ Đề bổn vô thụ
Minh Cảnh diệt phi đài
Bổn lai vô nhất vật
Hà xứ nhiễm trần ai.
Ngũ Tổ Hoàng Nhẫn biết được Huệ Năng đã ngộ Đạo. Nhưng vì ông sợ Huệ Năng bị hại, nên ông lấy bùn vừa bôi thơ của Huệ Năng và bảo rằng thơ nầy chưa tỏ ngộ Đạo, để cho mọi người không ai để ý đến. Sau đó ông mời Huệ Năng vào, trong lúc canh ba, để ông truyền thụ Bí Pháp của Đạo Gia và Y Bát của nhà Phật cho Huệ Năng. Từ đó Huệ Năng là người truyền đời thứ sáu, pháp danh là Lục Tổ Huệ Năng. Truyền dạy xong, Ngũ Tổ Hoàng Nhẫn đưa ông qua sông để lánh nạn, và bảo ông phải ẩn nhẫn, khi nào đến cơ thì mới về Tào Khê mà phổ Đạo Lớn của Trời. Thời gian trôi qua, Lục Tổ Huệ Năng phải ẩn nhẫn đến mười bốn năm mới ra phổ Đạo của Trời.
Thời chưa đến Đạo Gia còn ẩn
Biết tuỳ thời mà hiệp nhân duyên.
Bậc tế thế mà lại giả điên
Bậc ngộ Đạo mà phải giả dốt.
Thời suy, Đạo sáng sống nên yên ẩn
Thời sáng, Đạo sáng phổ bá rộng xa.
Trăng tối huyền ẩn giữa trời cao
Đạo đợi thời ẩn yên huyền giải.
d. Thời kỳ trăng tròn khiết:
Trăng tròn khiết tô màu Thiên Lý
Đời thạnh suy mở trí nhân tài.
Trăng giữa Trời Đất biết trở xoay
Người thượng học lập thân biết số mệnh.
Trăng sáng tối để đo lòng Trời Đất
Người thiên tài phải thấu lý cương nhu.
Trăng không nói Trời Đất tới lui
Người thanh tịnh Càn Khôn hiệp một.
Trăng chuyển hình lòng nước dâng cao
Bậc minh Đạo khai lòng thiên hạ.
Thầy giảng đến chỗ đạt Đạo của người xưa, là muốn cho các con thấy được rằng người đạt Đạo ra đời phổ bá. Gặp lúc suy tiến thoái lưỡng nan, mà họ tìm ra đường chánh Đạo để khai sáng cho lòng người thông suốt cái lý nhất nguyên.
Như Đạt Ma Tổ Sư, ông đã ứng phó với thời kỳ nước Trung Hoa lúc đó, triệu người tu không có pháp môn, vạn người hưởng nhàn nhận ơn thí độ của chúng sanh mà không chịu hồi tỉnh. Ông đã bao lần lập ra nhiều công thức để phá cái mê của nhân sanh, nhưng vì rễ văn tự đã ăn sâu vào trong hàng trí thức, nên họ khó tỏ ngộ được chỗ cao kiến của Đạo Gia. Lúc đó các người tu cho ông là Tà Đạo. Ông vẫn chấp nhận mọi sự dư luận khảo đảo, và kiên nhẫn vào núi ngồi dưỡng Đạo. Chín năm ông diện bích, không ra ngoài với khách thập phương, vậy mà Trời chuyển hàng đạo đức đến tìm ông để học Đạo. Từ đó:
Bên trong ông tu chính hàng Đạo Giáo
Bên ngoài thuyết pháp độ Linh Căn.
Dạy Võ Đạo để tập luyện bản thân
Dạy pháp môn để khai sáng Chơn Thần.
Từ đó Phật Pháp được lên cao
Pháp môn cho môn đệ dưỡng Đạo.
Phật Pháp truyền tới đời thứ sáu
Là Đức Lục Tổ Huệ Năng thành Đạo.
Thượng đức sanh đúng thời
Đạo đức phổ đúng lúc.
Nghịch độ, tu hành độ ta tận độ
Thuận độ, du hành lợi tha từ độ.
Vượt biển lớn
Trời thử lòng người có Đạo.
Lúc nguy cơ
Để dạy trí tuệ bậc chơn tu.
Đó là cách biết chế mình trong thuận nghịch
Biết khai sáng cho mình trong Đạo sáng tối.
(Hết trang 54.)
(Tiếp trang 30.)
CHƠN ĐẠO TAM THANH
Vào Sông Trời để tỉnh Đạo
Vào Lò Trời để luyện Đạo.
Sông Tam Thanh có ba dòng
Để tẩy rửa tâm người có Đạo.
Nước Sông Trời tẩy rửa trần tâm
Người thượng trí vào đây diệt tánh.
Tắm Sông Trời khai nguồn thuỷ điển
Về Tam Thanh mở huệ cho Hồn.
Trên thuận Trời hiệp Đạo Càn Khôn
Dưới phổ bá Chơn Nhân hành Đạo.
Rửa tâm cho minh Linh Bảo
Sạch tánh cho tỏ Căn Tiên.
Đạo vào đời dứt bỏ lòng phiền
Nhân vì ái chơn truyền chánh quả.
Tâm sạch hội Điển Lành
Lòng thanh truyền Chơn Pháp.
Mỗi bước vân du
Đi trong xứ xứ.
Tầm bậc đại giác chơn tu
Tầm người vĩ nhân kết bạn.
Khai sáng cái đức lớn của người
Phổ hoá cái đức lớn của Trời.
Cầm công lý khai sáng nền công lý
Giáo nhân tâm giáo độ cả chính mình.
Làm việc là học việc
Học việc để thành tựu.
Vạn sắc muôn hình đều lấy tâm Không kết lại
Ngàn tướng muôn pháp nên đốn giáo ngộ Không.
Ai ai cũng có Đạo chánh tông
Nhưng thiếu chỗ tấm lòng chưa cải sửa.
Nếu sửa nó cho thanh
Thì việc tu thành chánh quả không khó.
Tánh người chứa sẵn đức vạn năng
Đạo của nhân loại có sẵn lòng từ ái.
Mở nó ra thì được tâm chơn quảng đại
Khai nó ra thì trở lại gốc từ bi.
Nam Mô biết khai thông
A Di biết độ chúng
Đà Phật biết áp dụng.
Biết áp dụng tới chỗ vô cùng
Thì đạt Đại Đạo Trung Dung.
Đến đây:
Tiến đức dường như không đức
Tu thân dường như chưa tu.
Học Đạo dường như không học
Luyện pháp dường như chưa luyện.
Độ người dường như không độ
Hành Đạo dường như không hành.
Trời sáng dường như không động
Trăng tỏ dường như chưa tỏ.
Ngộ Đạo dường như chưa ngộ
Thành Đạo dường như chưa thành.
Trí tuệ dường như không trí tuệ
Định huệ dường như không định huệ.
Thông suốt dường như không thông suốt
Giải thoát dường như chưa giải thoát.
Toàn giác dường như chưa toàn giác
Toàn chơn dường như chưa Toàn Chơn.
1. Tiến đức dường như không đức.
Bậc thượng đức
Hành Đạo không chấp Đức
Dường như người chưa tạo Đức.
Bậc thượng đức
Hành Đạo không câu chấp nhân duyên.
Thấy khó thì an ủi
Thấy thiếu thì bố thí
Thấy nạn thì che chỡ.
Chánh ngôn không sợ lời nói nghịch tai
Lời nói nghịch tai tỉnh lòng người khách Đạo.
Chánh tín không sợ người bỏ việc nhân nghĩa
Vì lòng thành tín làm sáng đức bậc trượng phu.
Chánh hạnh không sợ đứa gian lòng
Vì hạnh đức lớn là đường giải thoát cả hai.
Chánh đức không sợ người bỏ việc phước đức
Vì đức lớn dung chứa cả thiện lẫn ác
Người có lòng nhân tự mình biết vun trồng.
Chánh Đạo không sợ người bỏ Đạo
Vì đường Đạo là con đường giác ngộ
Bậc giác ngộ tự mình biết dọn hành trang
Mà trở về nhà lớn an dưỡng Đời Đạo.
Đó là cách tiến đức tu nhân mà dường như chưa tiến đức. Mình trồng giống Bồ Đề để cho nhân sanh tự khai hoá.
2. Tu thân dường như chưa tu.
- Tu thân mình trước.
Tu chỉnh cho mình tới chỗ giác ngộ hoàn toàn
Thì chúng sanh thấy đường sáng, tự nhiên hội tụ theo đó tu thân.
- Tu cho minh tâm kiến tánh.
Có đến chỗ trí tuệ thông suốt, tâm tánh viên dung, thì đạo tâm mới được siêu giác.
- Tu cho tới chỗ tỏ ngộ bản lai diện mục.
Hồi phục tâm linh
Khai đại giáo pháp.
- Tu cho tới cảnh giới thanh tịnh.
Hồn Vía tương hội
Chơn thức hồi quang
Thì đường Tây Phương đáo ngả
Sổ sanh tử được thâu về.
- Tu cho tới cảnh trí vô sanh tử.
Ngọc Phật trả về lại kho Trời
Vốn lời quy vào trong nhà lớn.
Như giọt nước dưới biển, muốn được tiến hoá, thì nó phải hoá thành không khí, bay lên không gian; kết lại làm sương đêm; rồi bay tận đầu nguồn cao, núi lớn, mà rơi xuống nuôi thảo mộc, côn trùng; rồi cũng trổ ra suối lớn, ra sông ngòi, mà hiệp lại với biển để làm rong rêu.
Chơn Quang của mỗi con người cũng vậy, đi một vòng tiến hoá, rồi tu luyện để trở về Trời.
Đến đây các con mới thấy chỗ tu mà dường như chưa tu là vậy. Vạn vật tiến hoá đều có sự sắp xếp của cõi siêu nhiên dẫn độ.
3. Học Đạo dường như không học.
- Bậc giác ngộ.
Hành Đạo tức là học Đạo luôn một lúc
Làm việc là học việc luôn một lúc.
Dạy người học Đạo tu thân
Dưỡng mình duy trì Đạo Pháp.
Khai sáng cho người ngộ Đạo
Khai hoá cho mình siêu giác.
Dạy người bỏ đường mê
Nghiêm mình không vào đường tối.
Làm sư của cả đại quần chúng
Đại quần chúng là minh sư của mình.
Người học mình dạy
Người động mình tịnh.
Tịnh để tỉnh mình
Tịnh để dạy người.
Lòng thanh tĩnh để khai hoá thượng trí
Tâm thanh tĩnh để giữ trí định huệ.
Mỗi bước nên viên dung
Độ hành nên trung dung.
Lời đến tuỳ ngôn ứng đáp
Việc đến tuỳ duyên hoá giải.
Thuỷ trí không ở một phương
Cho nên bao trùm tất cả.
Dạy người trong thiên hạ
Không nên chứa tư dục hạn hẹp.
Trí của thiên hạ là trí của Trời
Hãy để cho nó tự do hoá giải.
Đạo Lớn là của Con Trời
Dạy cho nó bình tâm trở lại.
Vạn vật không tánh
Vì nhiễm tánh trần.
Vạn vật không tình
Ngộ Đạo thì linh.
Học Đạo giác tha
Vô Tranh Chi Giáo.
Học Đạo lợi sanh
Vô Tranh Chi Bảo.
Đức Lớn nhờ người hành
Đạo Lớn nhờ người lành.
Học Đạo tồn tâm
Tích lý khai thanh.
Dưỡng Đạo siêng hành
Cải tánh diệt danh.
Học kinh lý cầu kinh chơn giải
Tâm ngộ lý vạn đại khai thông.
Học tới chỗ vô tranh
Thì được thành chánh quả.
Học tới giới vô danh
Toàn Chơn hiển Đạo khắp cả.
Các con học tới đây mới đến chỗ:
Học năng hành
Phàm tâm sanh Thánh.
Học năng luyện
Hiển hiện Đạo linh thiêng.
Học thành đạt
Uyên bác trí tuệ suốt thông.
Học không lòng
Chơn Dương về chầu Thượng Đế.
Học không tâm
Ngộ xuất vào cõi siêu nhiên.
Học Hậu Thiên
Diệt phiền dứt não.
Học Tiên Thiên
Thiên Đạo ứng cảm Toàn Chơn.
Các con học tới chỗ thông giáo pháp của Trời, thì nên lấy vô tư mà hiệp cùng với Đạo.
- Học một lý
Ứng biến muôn sự.
- Học một tâm
Khai giáo pháp cho cả muôn tâm.
- Học một tánh
Vào trần bất nhiễm thiện lẫn ác.
- Học một tình
Vào biển Đạo để dạy thương yêu.
Tình đạt lý siêu nhiên
Yêu nhân loại triền miên.
Tình hiệp lý Tiên Thiên
Đem linh pháp chơn truyền.
Phật Tánh không lòng nên vô nhiễm
Học Đạo không tình nên vô sanh.
Ngả Phật một đường
Quy Không thượng học.
Tâm đại minh giác
Học tức không học.
4. Luyện Pháp dường như chưa luyện.
Đạt Pháp
Tu bằng trí lập căn cơ.
Thông suốt
Tu bằng ý để khai giáo pháp.
Trí Đạo lên cao khai nguồn văn hoá
Tánh Đạo lên cao chiết tự lập văn.
Chơn lý lên cao hoà vào biển Đạo
Chơn thức lên cao học mãi không dừng.
Luyện tới chỗ trung dung
Mà hình như chưa luyện.
Luyện đến Đạo Hư Không
Chơn thân tự tu luyện.
Thân pháp thần chuyển
Khí hiệp thần luyện.
Luyện Đạo minh Đạo
Nhưng không giành Đạo.
Luyện Đạo minh đức
Nhưng không tranh đức.
Luyện Đạo minh tâm
Hành như vô tâm.
Luyện Đạo ngộ xuất
Lòng không thách thức.
Luyện Đạo ngộ Đạo
Chơn giác vô sanh.
Đạo luyện tới chỗ tột lành
Lòng lại vô vi an định.
Đạo luyện tới chỗ tột sáng
Mà luôn thanh thản vô vi.
Thiên Lý bất truy
Tự nhiên liễu ngộ.
An nhiên theo số
Trời lại dụng mình.
Tịnh luyện tâm không lòng trống
Đạo luyện tâm trống lòng không.
Tới chỗ mênh mông
Là đồng tánh Đạo.
Tới cõi chơn giáo
Đạo luyện tâm hành.
Nơi cõi chưa sanh lại chưa được sanh
Nơi cõi vô danh Đạo đạt toàn thanh.
Toàn thanh không hình
Toàn thanh không tranh
Toàn thanh không tướng
Toàn thanh vô danh.
Đạo Tịnh
Lòng tranh danh cháy sạch.
Đạo Thanh
Cõi vô sanh hiện rõ.
Đạo Vô Sanh
Chơn lý thiện lành toàn năng sống lại.
Đạo Chơn Hành
Cải tánh, đạt Đạo, diệt danh.
Luyện chỗ lòng thanh
Trăng Thu hoà hiệp.
Đạo chuyển tiếp, Đạo chuyển tiếp
Đây đó hoá duyên.
Tánh vô sanh hoàng dương Đạo Pháp
Lòng vô tranh hoá Đạo quần sanh.
Luyện Đạo dường như chưa luyện
Đạt Đạo Trời lòng lại vô tư.
Đến đây, Căn Đạo dấn thân phục vụ độ hành trong khắp nhân gian.
(Hết trang 41.)
(Tiếp theo trang 11.)
TẦM ĐẠO HAI KHÔNG
Có nhà Thiện Trí Thức chuẩn bị một chuyến du hành để đi tầm Đạo Hai Không.
Ông đi đến chân núi có đền thờ Thổ Địa, thì gặp được ông Thần Núi. Ông Thiện Trí Thức liền hỏi: "Thưa Ngài, Đạo là gì?"
Ông Thổ Thần bảo: "Đạo là Đất."
Nhà Thiện Trí Thức ngạc nhiên hỏi: "Tại sao Đạo lại là Đất?"
Ông Thần Núi giải thích:
Đất là Mẹ Lớn để nuôi người
Đất là Tình Lớn để nuôi vật.
Đất là Nhà Lớn của nhân loại
Đất là Đạo Lớn của con người.
Người lập thân nhờ Đất để dụng võ
Người tu thân học Đất để an tịnh.
Đất không nói
Hoá sanh muôn vạn vật.
Đất không lời
Mà chứa cả nhân gian.
Như mẹ thương con không dám chuyển mình
Giữ yên tịnh cho con mình tỉnh Đạo.
Đất sanh khí hoá thành dưỡng khí
Đất sanh sắc hoá thành ngũ cốc.
Đất sanh thảo mộc
Thảo mộc dưỡng nhân.
Trời cao lấy Đất làm nền
Thần Tiên lấy Đất làm nhà
Quốc Gia lấy Đất làm nước
Con người lấy Đất để canh tác.
Đức của Đất lặng yên
Sức bền vô cùng tận.
Đạo của Đất hoá sanh
Trong thành trụ hoại diệt đi mãi.
Tình của Đất dung chứa bao la
Nên nuôi hết cả vạn linh trong thiên hạ.
Đất tỉnh người yên đạt tịnh
Cho bậc chơn tu ngâm vịnh Thái Không.
Đất dưỡng nhân sanh cõi đại đồng
Làm mà không nói chẳng tính công
Sanh người hoá vật luân phiên chuyển
Thực hiện độ tha giữa cộng đồng.
Ông Thần Núi nói tiếp: "Đạo của Đất là như vậy đó."
Nhà Thiện Trí Thức bái phục sự phân tách Đạo của ông Thần Núi. Rồi ông tiếp tục du hành.
Ông Thiện Trí Thức đi được chừng ba mươi cái núi, ông gặp một ngôi Thánh Đường. Ông ghé vào xin tạm nghỉ chân, thì gặp được vị Thánh Nhân.
Ông Thiện Trí Thức lại hỏi Đạo với vị Thánh Nhân: "Thưa Ngài Đạo là gì?"
Vị Thánh Nhân trả lời: "Đạo là Kinh Kệ Văn Chương."
Nhà Thiện Trí Thức thắc mắc hỏi: "Tại sao Đạo là Kinh Kệ Văn Chương?"
Vị Thánh Nhân từ tốn giảng giải:
Đạo Kinh để mở mạch lý
Đạo Kệ viết để chỉ đường
Đạo Văn viết để mở ngỏ
Đạo Chương cho người biết sau trước mà hành.
Đạo Kinh để mở mạch lý.
Kinh thơ Đạo Học gồm chứa điển văn, càng xem càng khai mở hệ thần kinh từ thấp cho tới cao, rồi từ từ tỏ ngộ Đạo Pháp.
- Kinh là Lý. Nó mở được Đạo cho hàng Thượng Trí tầm về đường giác.
- Kinh là Mạch. Tất cả hệ thần kinh trong người được nuôi sống là do sáu màng Mệnh Môn luân chuyển: 1 - Màng Óc; 2 - Màng Phổi; 3 - Màng Bao Tử; 4 - Màng Trái Thận; 5 - Màng Bàng Quang; 6 - Màng Thất Từng La Võng.
- Kinh là Đường. Trong mỗi con người nó như một Tiểu Vũ Trụ. Các hệ thần kinh nối nhau từ đầu, mình, chạy xuống tay chân, bao trùm khắp cả, để cho hồng huyết cầu và bạch huyết cầu hiệp cùng khí quản mà:
Chu du khắp cơ tạng
Vận hành khắp nhân thân
Điều kinh lộ hô hấp
Nuôi sống các tế bào.
Nhờ kinh là con đường nên:
Máu Huyết mới lưu thông
Khí Điển mới hoá thể
Âm Dương mới điều hoà
Mệnh Lý mới dưỡng Đạo.
2. Đạo là Kệ viết ra để chỉ đường.
Người đi trước đã thành công
Nên viết ra để truyền nhân.
Người luyện tập đã đạt Đạo
Viết lại để chỉ đường dẫn lối
Cho người kế tiếp biết cách tự cứu mình.
Đạo kệ là công thức
Công thức trong kinh thơ.
Văn ngôn thường ẩn ý
Có hàm chứa Thiên Cơ.
Thiên Tượng di hành
Cơ tạng hoá sanh.
Đời phân biệt, người tu mặc kệ
Thấy chánh tà kệ họ, bỏ đi
Thấy đây kệ đó, không truy
Biết đâu kệ đó, không vì đấu tranh.
Kệ nhân thế tu hành hoá giải
Kệ tình đời bạc đãi càng tu
Kệ lòng nhân, ra sức công phu
Kệ bá tánh, lòng tu không chấp.
Đời đến vấp tự nhiên tỏ ngộ
Đạo đến nhồi tỏ chỗ kệ kinh
Trước sau Thiên Lý một tình
Tu hành kệ kệ mà linh hơn người.
3. Đạo Văn viết để mở ngỏ.
Văn thơ là món ăn tinh thần của hàng đọc giả:
- Nhờ Văn Thơ siêu thoát mà duy trì được nền đạo đức ngàn năm.
- Nhờ Văn Thơ thượng học mà con người tầm đường tu giải thoát cho chính họ.
- Nhờ liễu ngộ Kinh Văn mà biết đường vào Đạo Lớn của Trời.
- Nhờ Kinh Văn mà con người bỏ thù diệt oán, hoá giải oan gia, xây nền đạo đức.
- Nhờ Văn Thơ tao nhã mà hàng lao nhọc giải trí tinh thần lúc vào đời.
- Nhờ Điển Văn cao siêu mà độ được hàng Đạo Gia đắc pháp thành Đạo.
Một lời văn thơ cao kiến
Là một đường cứu cánh cho nhân sanh.
Một bài minh luận giải thoát
Đưa rước không biết bao hàng Đại Trí.
Một áng văn đốn ngộ
Tỉnh hàng loạt bậc Đạo Học Huyền Cơ.
Một công thức đốn pháp
Khai trí tuệ muôn ngàn thiện trí thức.
Một bài giảng kinh thuyết pháp
Giúp cả triệu linh hồn mê muội.
Một quyển kinh Cứu Khổ
Cải tử được số nhất thời
Hoàng sanh được người thất bại
Khai trí tuệ cho bậc có căn cơ
Mở đường từ thiện cho hàng Bồ Tát.
Xưa nay con người vì chưa học tới chỗ cao kiến của Đạo Gia, nên không biết áp dụng vào nền Văn Học Đạo Giáo, mà cứ ôm theo sự mê tín, nên làm hạn chế đi nền Văn Chương Đạo Học.
Bậc giác Đạo mở nền Văn Học
Khai Lý Trời dung hoá Càn Khôn
Mở huệ tâm khai hoá Văn Ngôn
Bàn Kinh Điển chỉ đường giải thoát.
Bậc giác ngộ lào thông uyên bác
Lòng vị tha viết lại mở đường
Phụng sự đời, đạo đức yêu thương
Đem kinh điển vào trường thơ phú.
4. Đạo Chương là theo thứ tự để hành.
Kinh Luận có trước sau
Đạo Học có kim cổ
Văn Học có nền tảng
Kinh Kệ có thấp cao.
Chơn Lý có cạn sâu
Trong đời có Phàm Thánh
Hiểu nông, bàn chỗ sơ cơ
Hiểu sâu, thông suốt kim cổ.
Văn theo Chương để phổ trình
Chương hành Văn để tỏ ngộ.
Đến đây vị Thánh Nhân nói với nhà Thiện Trí Thức: "Vậy Đạo không phải là Kinh Kệ Văn Chương, chứ ông nghĩ Đạo là cái gì?"
Nhà Thiện Trí Thức nghe qua rất am hiểu, và cảm ơn vị Thánh Nhân, rồi tiếp tục lên đường.
Ông đi lên được khoảng bảy mươi cái núi, mới gặp một cái hang động. Ông ghé lại nghỉ chân, thì gặp được một Tiên Ông đang ngồi luyện Đạo. Nhà Thiện Trí Thức thấy vậy nên ở lại chờ để vấn Đạo Tiên Ông.
Nhà Thiện Trí Thức hỏi Tiên Ông: "Thưa Ngài Đạo là gì?"
Tiên Ông cười và bảo: "Đạo là Linh Đơn."
Nhà Thiện Trí Thức nghe qua lại càng khó hiểu. Ông hỏi thêm: "Tại sao Đạo lại là Linh Đơn?"
Tiên Ông giải thích:
Tiên Đạo xưa nay có dạy 'Tu Luyện Tiên Đơn'.
Người tu luyện Tiên Đơn
Mượn Âm Dương giao cảm
Để kết thành Hai Tám
Mà đạt Đạo Tiên Thiên.
Vì Đạo là Linh Đơn
Nên cải tử hoàng sinh
Ai đau thương thì cho
Ai bịnh đau thì giúp.
Phàm nhân tu được nó
Thì sanh Tiên.
Thần Nhân tu được nó
Thì sanh Linh Huyền.
Thánh Nhân tu được nó
Thì sanh Trí Tuệ.
Tiên Nhân tu được nó
Thì là bậc Đắc Pháp.
Phật Nhân tu được nó
Thì thành bậc Chơn Nhơn.
Thiên Tôn tu được nó
Thì chơn giác trường sanh.
Thuốc Tiên tu nơi tâm
Được nó thì siêu giác.
Thuốc Tiên tu nơi tánh
Được nó thì viên thành.
Thuốc Tiên tu nơi trí
Được nó thì phát huệ.
Thuốc Tiên tu nơi tấm lòng
Được nó thì chí nhân.
Thuốc Tiên tu nơi xã hội
Được nó thì trung nghĩa.
Thuốc Tiên tu nơi công danh
Được nó thì chí công vô tư.
Thuốc Tiên tu nơi quan trường
Được nó thì thanh liêm phụ mẫu.
Thuốc Tiên tu nơi Thiên Tử
Được nó thì thiên hạ Thái Bình.
Thuốc Tiên tu nơi khanh sĩ
Được nó thì thành chí sĩ.
Thuốc Tiên tu nơi phú quý
Được nó thì vị tha bố thí.
Thuốc Tiên tu nơi chỗ vinh hoa
Được nó thì nâng đỡ hiền tài.
Thuốc Tiên tu nơi chỗ vinh thân
Được nó thì nâng đỡ hàng đạo đức.
Thuốc Tiên tu nơi chỗ gia cang
Được nó thì gia đạo hạnh phúc.
Thuốc Tiên tu chỗ công đường
Được nó thì công minh xử thế.
Thuốc Tiên tu ở chỗ chợ
Luyện tịnh trong động
Đạt tịnh trong chơn tịnh.
Thuốc Tiên tu ở chỗ phồn hoa
Luyện thanh trong trược
Đạt thanh chơn thanh.
Thuốc Tiên tu ở trong chùa
Luyện đức trong nhân
Toàn đức giải thoát.
Thuốc Tiên tu ở trên núi non
Tham thiền nhập định
Đạt định thông suốt.
Thuốc Tiên tu ở trong lòng người
Bao dung độ lượng
Độ đầy đạt Đạo.
Tiên Ông nói: "Ông nghĩ, Đạo không phải là Linh Đơn, vậy Ông gọi là cái gì?"
Đến đây Nhà Thiện Trí Thức được mở trí vô cùng. Ông cảm ơn sự dạy dỗ của Tiên Gia, rồi tiếp tục đi.
Ông đi được chín mươi cái núi thì gặp được một vườn Địa Đàng có cây lành trái ngọt. Ông đi vào bên trong thì thấy có vị Phật Gia đang ngồi định thiền. Ông ngồi nghỉ chân và xin được vấn Đạo ở vị Phật Gia.
Nhà Thiện Trí Thức hỏi: "Thưa Ngài Đạo là gì?"
Vị Phật Gia trả lời: "Đạo là sự thiện lành."
Nhà Thiện Trí Thức lại càng không hiểu, và xin ngài Phật Gia giảng cho.
Vị Phật Gia từ tốn giảng giải:
Đạo cao nhất là Chơn Không
Nơi đó chứa nguồn thiện của Trời Đất.
Đức cao nhất rộng tợ không gian
Dung chứa tất cả vào trong để dưỡng dục
Chứa cả sự phân biệt của con người
Mà vô tư chí thiện dạy dỗ.
Nhân cao nhất là bậc Chơn Nhơn
Tu hành đến chỗ liễu Đạo Toàn Chơn.
Vào đời không tranh hơn
Hành Đạo vô quái ngại.
Tỉnh đời không thân sơ
Trước sau tỏ lòng chí thiện.
Trong không chánh không tà
Ngoài không thiện không ác.
Trước sau một lòng chí thiện
Trên dưới một dạ chí nhân.
Hướng Đạo khai sáng cho đời
Lòng luôn vô tư lặng lẽ.
Phật đến vì nhân để truyền đời
Nhân đến nhờ Phật để tỏ ngộ.
Người có Đạo Lớn đầy lòng thiện từ
Vào đời bằng tâm giác tha tự nguyện.
Phàm Nhân toàn thiện thì giác
Thần Nhân toàn thiện thì linh
Thánh Nhân toàn thiện thì minh
Tiên Nhân toàn thiện thì hoá hình
Phật Nhân toàn thiện thì đắc pháp
Thiên Tôn toàn thiện thì trường sanh.
Thiện ở trong nhân gieo giống Bồ Đề
Thiện ở trong Đạo trồng giống phúc đức
Thiện ở trong người lành là hạnh đức khiêm cung.
Thiện đến hoá giải ác
Thiện đến hoá giải oán.
Thiện đến để thi nhân
Thiện đến để ban ân.
Sức mạnh của Thiện là tâm thức
Diệu pháp của Thiện là tâm giác
Giác ngộ của Thiện là tâm đức
Dung chứa của thiện là lòng độ lượng.
Đạt Thiện, Đạo chuyển
Tâm thanh tịnh luyện.
Bậc Đại Giác không lòng thiện ác
Nhân chí nhân không vào chỗ hơn thua.
Thiện ở trong nhân
Lòng Thiện ngoài nhân
Thì mới giải thoát tinh thần Đạo Giáo.
Thiện đến tột Thiện, không còn là Thiện
Mà biến thành diệu pháp Liên Hoa.
Vị Phật Gia nói: "Đạo không phải là thiện lành, vậy chớ là cái gì?"
Nhà Thiện Trí Thức được mở trí khai huệ, ông cảm ơn vị Phật Gia không ngớt lời. Rồi ông tiếp tục đi hết dãy núi.
Cuối cùng ông được vào Nhà Lớn của ông Đạo Hai Không. Đến đây ông nhìn tỏ bốn phương, thấy xa muôn dặm. Ông xin được vào ra mắt và vấn Đạo Ông Đạo Hai Không.
Nhà Thiện Trí Thức vẫn hỏi một câu như trước: "Thưa Ngài Đạo là gì?"
Ông Đạo Hai Không trả lời: "Đạo Lớn là Không Không."
Nhà Thiện Trí Thức nghe qua ngớ ngẫn, rồi lại cười to và nói lớn: "Con chưa từng nghe qua Đại Đạo là Không Không."
Bây giờ nhà Thiện Trí Thức không còn hỏi tại sao, mà chỉ xin được sự minh giải.
Ông Đạo Hai Không nói: "Nếu con không cười to nói lớn thì làm sao giác ngộ được Chơn Đạo Hai Không."
Lúc nầy Nhà Thiện Trí Thức lặng yên và xin học cái diệu pháp Chơn Đạo Hai Không.
Ông Đạo Hai Không điềm đạm giảng dạy:
- Một Không là cái quả vị tột lành của Đạo là Không Thiện.
- Hai Không là cái Niết Bàn tột phẩm của Chư Phật là Không Ác.
Con mới học tới chỗ quả vị của nhân hiền; hành thiện, còn chấp ác; học thiện còn chứa ác. Vì vậy mà sanh ra phân chia thiện ác. Thiện ác không phân minh thì suốt đời chỉ đi trong vòng lẫn quẫn. Suốt kiếp tu hành không thoát ra khỏi phàm tâm thì làm sao mà đạt giác ngộ để giải thoát.
Còn con đi hết các nẻo đường quan sơn học Đạo, đó là con chỉ mới luyện tới cái chỗ Không Thiện của hàng Đạo Đức. Nhưng từ đây con phải luyện chỗ không ác, thì mới đủ Huyền Năng mà vào học Đạo Toàn Chơn.
Toàn Chơn là không còn nhiễm thiện lẫn ác.
Tâm Toàn Chơn
Là bậc Đại Giác vô tư.
Tánh Toàn Chơn
Là pháp môn Vô Tranh Chi Bảo.
Hạnh Toàn Chơn
Là Vô Danh đi hành Đạo.
Trước sau giữ một lòng từ bi tế thế
Trong ngoài dung chứa đức chí nhân quân tử.
Có hành được như vậy thì mới đạt Đạo của ta.
Nhà Thiện Trí Thức nghe qua, liền quỳ xuống bái sư cầu học Đạo. Và xin học tới chỗ Không Thiện Không Ác để thành Đại Đạo Toàn Chơn.
Ông Đạo Hai Không nhận nhà Thiện Trí Thức làm đệ tử, và mỗi ngày gia công chỉ dạy cách tu dưỡng tâm pháp và giáo dạy chơn lý. Ông dạy:
- Mỗi con người đều có sẵn cái Thiện Chơn. Nó là tánh của Trời, nên nó vốn Không Ác.
- Mỗi con người đều mang một cảm tính của Phật, nên nó vốn Không Thiện.
Muốn học Đạo Không Ác:
Luôn để lòng bình thản, vô tư, trống vắng
Trí tuệ không để cho tư dục che đậy
Theo Thiên Lý học luyện ứng tâm
Theo Đạo Lý mà dung chứa khắp cả
Gom khí linh tu luyện Kim Thân Phật Tử
Siêu phàm nhập Thánh thì đến chỗ Không Ác.
Còn muốn học chỗ Không Thiện:
Ma Lục Dục chẳng đeo mang
Quỷ Thất Tình phải buông bỏ.
Tâm chuyển cảnh Không
Xác luôn thiền giác.
Lấy chỗ Không Tâm
Chế ngự phàm tâm.
Học cái Thiên Lý
Hườn đồng cải lão.
Âm theo đức độ mà thuần tánh
Dương theo đạt Đạo mà đến chỗ Nhân Thượng Nhân thì thoát ra được vòng Không Thiện.
Người không Thiện Ác là bậc Chí Nhân
Đức không Thiện Ác là bậc Chí Thánh
Đạo không Thiện Ác là bậc Chí Thành
Thần Nhân không Thiện Ác là bậc Chí Linh
Tiên Nhân không Thiện Ác là bậc Thông Suốt.
Đạo được thông suốt
Đốt đuốc cho đời.
Đức được thông suốt
Dung chứa không lời.
Nhân được thông suốt
Hành Đạo thay Trời.
Đạo Hai Không dạy bậc Chí Nhân
Thầy Hai Không dạy bậc Chí Thánh.
Đạo Toàn Chơn sau trước đều Không
Bậc giác ngộ vô tư học Đạo.
Con theo đây mà luyện chỗ Không Tâm
Con vào đây mà luyện Đạo Thầy Không Tánh.
Không Tâm cầm Mệnh của Trời
Không Tánh cầm Pháp của Phật.
Từ đây con về lại trần gian, tu dưỡng theo Đại Đạo Toàn Chơn mà hoàng dương Đạo Pháp.
Nhà Thiện Trí Thức vui mừng vô kể. Ông cảm ơn sự Điểm Đạo của Thầy, rồi ông từ giả Thầy về lại thế gian hành độ Đại Đạo Hai Không.
Thiên Sơn Đạo thông Không Ác
Chí Thiện Toàn Thiện Không Thiện.
***
(Hết trang 29.)
(Tiếp theo trang 3.)
LUYỆN ĐẠO TRONG BA DÒNG NƯỚC
BÁI SƯ CẦU ĐẠO
Ở trên núi Thiên Sơn, có một vị Minh Sư tên là Thiên Không. Ông là một vị Đạo Gia Khoa Học Huyền Bí tột đỉnh, vì vậy cả thiên hạ ai ai cũng muốn cầu Ông để học. Ngặt vì Ông ở trên một ngàn cái núi, vào giữa lòng Trời mới đến được chỗ Ông ở.
Có hai vị Tâm Tánh và Chơn Như thành tâm chí nguyện trèo qua một ngàn cái núi để cầu Đạo bái Sư. Nhưng không ngờ anh Tâm Tánh chỉ trèo được một trăm cái núi thì thối chí, không trèo nữa, bỏ cuộc về nhà an dưỡng.
Còn anh Chơn Như thì cố gắng qua suối, vượt non, băng rừng, vượt khó. Thú dữ doạ nạt vẫn không để ý, Ma dụ không lay, Quỷ hù không sợ. Thời tiết giông tố, bão lớn liền liền, khổ hạnh không than, đói lòng không nãn. Anh Chơn Như quyết chí, một lòng đi đến Thiên Sơn cầu Thầy học Đạo.
Bao khó khăn anh Chơn Như đã vượt qua. Cuối cùng anh đã vào được nhà của ông Thiên Không. Và anh Chơn Như ra mắt và cầu Đạo ở ông Thiên Không.
Ông Thiên Không dạy cho anh Chơn Như cái mật pháp Như-Ý, và bảo:
- Con hãy ở đây an dưỡng một trăm ngày, rồi sau đó ta mới truyền Đạo cho.
Anh Chơn Như nghe lời ở lại an dưỡng được ba mươi ngày, thì lại nhờ ông Thiên Không truyền Đạo cho.
Ông Thiên Không bảo:
- Khí lực của con còn hăng, con hãy thư thả.
Nhưng anh Chơn Như lại muốn biết lý do tại sao ông Thiên Không chẳng truyền dạy Đạo liền cho anh.
Ông Thiên Không từ tốn giải thích:
Đạo của ta ở Thiên Không
Là không động cũng không tịnh
Nó ở chính giữa của động tịnh
Nhất động thì nó tỉnh trong động
Nhất tịnh thì nó tỉnh trong tịnh.
Không động tịnh thì nó lặng yên
Thường lặng yên thì nó tịch diệt
Đến chỗ tịch diệt thì nó vô sinh vô tử.
- Vì tánh của con còn nóng, khi luyện Đạo khí quản lên cao, Dương Khí sanh hoả. Hoả khí sẽ đốt cháy Nguyên Linh.
- Vì tâm của con còn vọng kiến cầu học. Khi luyện Đạo tánh phàm-thánh phát sanh ra thiện ác lẫn lộn, khí ô trược phát khởi, mà sanh ra ô trược tham cầu. Đã tham cầu thì chấp trong loạn tưởng của phàm ngã.
- Tâm con còn chưa an, sự hiểu biết kéo về thì nó suy tính chỗ tương lai, phân biệt quá khứ, mà làm mất đi cái tánh thanh tịnh.
- Tâm con còn chưa đạt quân bình, nó sẽ làm cho Dương Khí lên cao sanh ra sân giận. Hoặc Âm Khí xuống thấp tạo thành phiền muộn. Cả hai chưa được đồng nhất, cho nên dù Thầy có dạy con nhiều hơn nữa, chỉ tổn đến thời gian mà thôi.
Học Đạo trước luyện tánh cho tịnh
Để hoà hiệp với khí thanh.
Trước phải tỉnh lòng mình
Cho phàm ngã cháy khô.
Giữ cái lòng Không để giác ngộ
Giữ cái Đạo Không để chơn ngộ
Giữ cái tâm Không để từ độ.
Khí lực bốc cao
Thường sanh sân hận.
Hoả lực phát ra
Cháy vườn đạo đức.
Vì vậy mà Thầy kêu con phải tịnh tâm cho tới chỗ tâm bình, tánh lặng, thì từ từ liễu ngộ.
Anh Chơn Như nghe lời ngồi tịnh được bốn mươi ngày, lại nhờ Thầy dạy Đạo cho.
Ông Thiên Không bảo:
- Con mới vừa hạ hoả, khí linh mới tích tụ được một ít, Thầy chưa dạy Đạo cho con được, nhưng Thầy sẽ dạy cho con cách điều độ:
Thông thả ở trong lòng
Thả cho khí lưu thông
Khí linh tiếp linh khí
Nhâm Đốc mạch lưu thông.
Âm Dương khí vận chuyển
Tụ ở giữa khiếu linh
Cho tất cả hồi sinh
Vào Nê Hườn phát xuất.
Bình bình chuyển tâm dục
Nhè nhẹ tiếp khí Thiên
Chầm chậm hơi giao liên
Thanh thanh nơi Tổ Khiếu.
Tròn tròn khai huyền diệu
Sáng sáng khí Hạo Nhiên
Thiền thiền để giác trí
Định định hiệp Chơn Thiên.
Vào vào trong thư thả
Thả thả giữ tâm an
Nhàn nhàn ngồi kiểm soát
Tịnh tịnh giữ lòng thanh.
Khí chạy bao quanh
Chơn thanh hiệp thể
Điển reo nhạc trỗi
Cửu Khiếu khai thông.
Rồng cọp chầu ông
Tịnh tu lặng lẽ
Giữ lòng thanh nhẹ
Vào cõi Đại La.
Hai khí giao hoà
Âm Dương đắc nhất
Trước sau không vật
Là ngộ Thiên Không.
Anh Chơn Như thông hiểu được lời Thầy dạy, nên ngồi tịnh tới chín mươi ngày rồi đến một trăm ngày. Đến đây anh Chơn Như nhập định vào được cảnh giới Thanh Tâm, Tịnh Tánh. Và trong lòng lặng lẽ vô tư, quên hết sự việc nhờ thầy dạy Đạo.
Lúc nầy ông Thiên Không mới dạy Đạo cho anh Chơn Như.
Ông dạy:
- Nơi đây là Đạo Toàn Chơn của Trời, lại là nhà lớn của Tam Giáo, cho nên ta lấy tên là Thiên Không, tức là Đạo Trời không thiên vị, trước sau lặng lẽ vô tư.
Trong ngoài trống không
Dưới trên vô vật
Ngại chướng tiêu tan
Phiền não dứt sạch.
Tâm quá khứ bất sanh
Lòng vị lai diệt sạch.
Chơn Tánh không thân sơ
Chơn Đạo không cao thấp
Khả năng tu đến đâu
Thì được học nơi đó.
Ở ngoài Thiên Lý không tranh
Vào trong lợi danh không nhiễm.
Đức Lớn hành Đạo vô tư
Nhân Lớn học Đạo cầu tiến.
Bỏ cái chấp mắc hửu vi
Luyện cái tâm không động.
Diệt cái Lục Dục Thất Tình
Hồi tỉnh cái tâm thanh tĩnh.
Luyện cái chỗ Huyền Vi
Mở cái lòng từ thiện
Khai giáo pháp cho đời
Trồng cái nhân lành xuống.
Giống Bồ Đề được mọc
Đạo Bồ Đề truyền xa
Trường Bồ Đề khai giáo
Đức Bồ Đề Điểm Đạo.
Pháp thuỷ lưu thanh
Môn đệ trưởng thành
Hành pháp Như Ý
Thì đắc trường sanh.
Ông Thiên Không lại nói tiếp:
- Ta vốn Đạo Vô Hình, con đạt Đạo Vô Tướng. Cho nên kể từ đây, Thầy vốn Không Tâm, con lại là Vô Danh Thị. Ông Không Tâm làm Thầy đứa Không Tên. Đã đến cõi Không Tên, không đi học, không thi cử mà biết Đạo.
Thơ
Đi thi mà sợ tốn tiền
Cái trường miễn phí khó truyền chánh tông
Đi tu mà sợ khổ công
Thiên sơn chẳng vượt, tu vòng cho vui
Ai người khổ luyện rèn trui
Trăm sông ngàn núi vẫn vui cầu Thầy
Khổ công mới mở thang mây
Vượt ngàn gian khổ ngộ thầy Thiên Sơn
Cũng nhờ chí nguyện ra công
Mới đem đại trí vào trong lòng Trời
Ngộ Không, mở được Máy Trời
Không hình, không tướng, không lời, phi tâm
Nhờ tìm ra lý Dương Âm
Biết ngày giao cảm là thông Đạo Trời.
***
(Hết trang 10.)