Cảm Tạ
Con thành tâm cảm tạ Thiên ân của Đức Phật Tổ, Đức Cha Trời Mẹ Đất, và Cộng Đồng Cửu Phẩm - Phật, Tiên, Thánh, Thần - Tam Giới Thiên Địa Nhân.
Con cũng thành tâm cảm tạ công ơn Thầy Tổ và chư vị Đạo Hửu ở địa phương và năm châu thế giới, đã đặc biệt quang chiếu Thanh Quang Điển Lành và trợ giúp cho con có phương tiện thực hiện các tập sách - Thi Văn Tâm Linh Đạo Học - để con và chư vị Đạo Hửu có cơ hội phụng sự Cơ Thiên Địa Đại Đạo của Đức Như Lai Phật Tổ và Đức Thiên Địa Phụ Mẫu.
Con chân thành ước mong được chia sẻ Tình Thương, Đạo Đức, và sự hiểu biết về Sức Khoẻ và Tâm Linh Điển Quang Đạo Học cùng với cộng đồng Nhân Sinh, Vạn Linh Tam Giới.
Một lần nữa con xin thành tâm đảnh lễ và cảm tạ Thiên Ân Bề Trên, và con đặc biệt cảm tạ chư vị Đạo Hửu, Thân Hửu cùng tất cả quí bạn đọc khắp nơi trên thế giới đã và đang dành rất nhiều cảm tình và sự trợ giúp quí báu.
Trân trọng kính bái,
Vô Danh Thị
Lời Tựa
Đốn Văn Phật cho tỉnh lòng Đạo
Pháp năng hành Linh Bảo hiện ra
Ngộ không tên không tướng truyền xa
Không động tịnh là nơi giải thoát.
Đạo Học là chơn lý vô biên siêu nhiên tịch tịnh, như lòng Trời trước sau trên dưới rỗng tuếch, mà lại chứa cả thiên kinh muôn pháp của Hư Không. Người mới ngộ dường như trống không, vô tư, lặng lẽ, nhưng nào ngờ nơi đó là chỗ linh thiêng vô cùng.
Pháp giới thì mông lung vô tận, siêu hình hửu cảm:
Như cái nhà lớn chứa hết tất cả chơn linh.
Như một cái trống lớn đánh vào vang xa muôn dặm.
Như cái nhân lớn vô tên đầy ấp sự vi diệu.
Như cõi lòng Trời yêu thương tới chỗ đầu nguồn.
Như cái biển lớn đưa các thuyền pháp của Tiên Phật lui tới muôn nơi, ẩn yên một thể bất động.
Cõi vô hình sanh vật hửu tình
Cõi không động sanh tâm chánh giác.
Chơn lý Hư Không là vô hình bóng.
- Không thể lấy trí mà bàn, bàn nhiều sẽ trật.
- Không thể lấy tâm mà suy, vì suy diễn sẽ sai.
- Không thể lấy hiểu biết mà luận đoán, luận đoán sẽ bị lầm lẫn.
- Không thể lấy hửu tâm mà chép, chép thì không tỏ sự vi diệu của nó.
- Không thể lấy vô tâm mà truy, càng truy càng bị che đậy.
Muốn truy nó, thả lòng vô tư.
Muốn gặp nó, vô vi tự nhiên.
Muốn giữ nó, vô trần bất nhiễm.
Muốn tầm nó, tỉnh chỗ có duyên.
Có duyên Thiên Lý Toàn Chơn
Đạo tâm vô tư liễu ngộ.
Người muốn đạt Đạo Lớn:
Dọn mình sống tự nhiên
Yên thân sống tự tại
Yên Đạo sống an nhiên
Yên lòng đón Chơn Thiên.
Nhứt dục trần sanh
Vô vi biến dạng.
Nhất động trần mê
Chơn tâm che tối.
Phả lấp chỗ tự nhiên
Che đậy chỗ minh diệu.
Cho nên người học Đạo Lớn nên nhớ kỹ:
Phàm giả ngã, kết tánh chúng sanh
Chơn giả giác tự nhiên Phật hiện.
Nhất động không sanh
Lương tâm thanh tịnh hiệp về.
Đạt tịnh quy thanh
Muôn kinh ngàn điển hiệp thành Thánh Tâm.
Học Đạo Lớn không tình
Nên luyện chỗ vô hình,
Đạt Đạo Lớn không tâm
Nên Thiên Lý truyền tâm.
Ngộ nhất Không khai sáng thiên Không
Ngộ nhị Không Kim Thân cải lão.
Kính Bái
Vô Danh Thị.
Chơn Đạo Vô Hình.
Chơn Phật Vô Tướng.
Chơn Nhơn Vô Danh.
Chơn Tu Vô Tranh.
ĐỐN PHÁP NGỘ KHÔNG
☀️
CẦU ĐẠO GIẢI THOÁT
🔆
Ở chân núi Tòng Sơn có một vị Thiền Sư đã liễu ngộ được Phật Pháp. Vào một buổi sáng đẹp trời, vị Thiền Sư đang ngồi thiền định, thì có một vị Thiện Trí Thức đến vùng núi Tòng Sơn để gặp vị Thiền Sư vấn Đạo Giải Thoát.
Vị Thiền Sư đang thiền định, ông mở mắt ra, thấy nhà Thiện Trí Thức kia lưng mang ba lô, đầu đội lương thực, vai gánh dụng cụ đồ dùng; vừa đội, vừa gánh, vừa vác. Thấy vậy vị Thiền Sư tiếp tục nhắm mắt thiền định.
Vị Thiện Trí Thức chờ đến trưa không thấy có kết quả, nên ra về.
Vào một hôm, tháng sau, vị Thiện Trí Thức lại tiếp tục hành trang lên núi Tòng Sơn để gặp vị Thiền Sư cầu Đạo Giải Thoát. Lần này, ông mang một cái ba lô và đội một ít lương khô để dành phòng thân. Vị Thiền Sư biết ông đến, nên mở mắt ra và lắc đầu ba lần rồi nhắm mắt lại. Ngài không nói gì, và tiếp tục thiền định.
Nhà Thiện Trí Thức, cũng như lần đầu, chờ mãi không được, nên bỏ ra về.
Vào tiết Lập Thu, nhà Thiện Trí Thức thức tâm, một lòng cầu Đạo, và quyết gặp cho được vị Thiền Sư để vấn Đạo. Lần này ông chỉ mang theo một gói nhỏ quần áo và một ít lương khô. Đến núi Tòng Sơn, thấy vị Thiền Sư đang ngồi thiền định. Như thường lệ, vị Thiền Sư mở mắt ra nhưng lần này có khác, vị Thiện Trí Thức nầy được vị Thiền Sư mời ngồi và tiếp chuyện.
Nhà Thiện Trí Thức rất vui mừng và mau miệng hỏi: "Bạch Sư Phụ, con muốn cầu Đạo Giải Thoát."
Vị Thiền Sư đáp: "Con đã bỏ gánh công danh của đời, và con đã giải cho hai vai của mình một gánh nặng, nay nó được thông thả nhẹ nhàng rồi vậy. Còn con bỏ cái ba lô sau lưng nặng trĩu kia, đó là con chấp nhận sống theo tự nhiên, siêu nhiên, không vướng chấp theo lòng tư dục, lượm lặt các thứ phân biệt phàm tâm mà làm vướng bận sự phải quấy của thiên hạ. Và con cũng bỏ luôn cái đội nặng trĩu trên đầu, thì đầu con đã được thông thả.
"Từ tạo Thiên lập Địa đến nay, con người từ Tiên Giới giáng trần, vì ham mê mùi trần thế tục mà phải đội đủ các lớp, lâm vào mọi cảnh. Kẻ đội lớp công hầu thì phải học lòn cúi theo thời, ở ăn theo thế, cho phù hợp tình đời. Còn người đội lớp phú quý, thì suốt đời bị lòng hưởng thụ lôi cuốn, theo bè bạn vào những chỗ thanh lâu tửu sắc, mà tưởng lầm là cảnh hưởng lạc cao sang. Chớ bậc chơn tu thấy nó là cửa hang đi vào Địa Ngục đó vậy. Vì ngoại cảnh, con người không biết đội cho khéo trong vai trò của mình một đời, mà đời sau phải bị đội sừng lớn, tai dài, bận đồ da thú, phơi thây cùng tuế nguyệt cho thoả chí tang bồng hồ hải!
"Nay con đã vào đây cầu Đạo Giải Thoát, thì con đã bỏ được ba gánh nặng ấy, đó là con đi được nữa đường của Đạo Giải Thoát rồi vậy."
Nhà Thiện Trí Thức liền nhờ Thiền Sư dạy cho một nữa đường còn lại của Đạo Giải Thoát.
Vị Thiền Sư nói: "Hôm nay ta dạy cho con một pháp thiền căn bản, con về lại gia cang mà tu dưỡng. Vừa tu vừa làm việc nuôi vợ con, và thanh lọc bản thân cho sạch sẽ, thần trí được ôn hoà, rồi ba năm sau vào đây gặp ta."
Nhà Thiện Trí Thức chào Sư Phụ rồi ra về lại nhà.
Theo lời Sư Phụ, ông vừa tu dưỡng pháp môn thiền định, vừa cải thiện lại đời sống gia đình thành một gia đình có đạo đức.
Đúng vào mùa Thu năm thứ ba, ông lại khăn gói lên đường vào núi Tòng Sơn gặp vị Thiền Sư để học thêm phương pháp giải thoát.
Vị Thiền Sư dạy phương pháp giải thoát:
1. Buông cái lòng mê đời
Cho tánh được an yên
Bỏ cái tâm phân biệt
Cho trí được thanh tịnh.
Quên quá khứ của đời
Cho Ma Lục Dục cháy khô.
Bỏ cái suy tưởng vị lai
Cho Quỷ Thất Tình hết cám dỗ.
Quên thân
Bỏ phận
Diệt danh.
Muốn đạt Đạo Lớn
Sau trước không có thân sơ
Lúc chưa sanh ra là vô tánh
Lúc ngộ Đạo rồi phải học vô trần.
Xưa nay con người nhận giả làm chơn mà sanh ra hai con đường là tà với chánh.
Tà sanh chiếm đoạt
Chánh sanh cố giữ.
Cả hai không phải là Đạo Giải Thoát.
Muốn học Đạo Giải Thoát
Phải tự giải chỗ thân sơ.
Không mình
Không người
Không chúng sanh.
Trước phi tâm
Sau phi tánh.
Kế đến là phi phi tưởng.
Thì mới không còn ngại chướng trên đường đi vào Đạo Giải Thoát.
2. Bỏ danh phận địa vị
Cầu Đạo Lớn bên trong không có mình.
Đại học Đạo, cầu Đạo quên mình
Tiểu học Đạo, cầu Đạo có mình.
Quên mình là:
Quên thân cho ngã mạng không sanh
Quên tâm cho trí tuệ yên tĩnh
Quên tánh cho tà chánh cháy tiêu
Quên pháp cho thân được liễu ngộ
Quên Đạo cho diệt lòng thiện ác.
Đứng trước tâm
Tâm lại không tâm.
Đứng trước tánh
Tánh lại không tánh.
Đứng trong lòng
Lòng lại không lòng.
Đứng trong cảnh vật
Mà không có cảnh vật.
Có bỏ được như vậy, thì mới tỏ ngộ Đạo Hư Không.
3. Diệt Danh Đạt Đạo.
Đạo Lớn không tình
Sanh dưỡng Trời Đất.
Đạo Lớn không hình
Xoay vầng nhật nguyệt.
Đạo Lớn không tên
Làm chủ thiên hạ.
Phật gọi cõi Vô Tướng
Là Niết Bàn Tịch Diệt.
Tiên gọi cõi Vô Danh
Là Chơn Khí Hổn Nguyên.
Thánh gọi Cõi Vô Sanh
Là Huyền Đồng một thể.
Thần gọi cõi Vô Tranh
Là Vô Cực Hồng Mông.
Con phải luôn nhớ kỹ ba thể diệt danh nầy mà nghiệm cho ra mối Đạo.
Chơn Đạo Vô Hình
Chơn Phật Vô Tướng
Chơn Nhân Vô Danh.
Đạo chẳng cầu danh nên được thiên hạ kỉnh thờ
Phật chẳng cầu danh nên được nhân loại học tập
Chơn tu chẳng cầu danh nên tu Đạo giải thoát.
Giải được Đạo của mình
Thoát khỏi lòng tư dục.
Giải được Đạo của người
Là thiên hạ tự an.
Thiên hạ tự an
Vô Vi khôi phục
Thái Bình trăm họ
Quả cầu phát quang.
Đạo thuần Dương là nhờ trăm họ biết tu dưỡng cho tới chỗ an yên. Bây giờ ta lên lớp cho con về pháp Vô Vi Tiên Thiên.
Nhà Thiện Trí Thức hỏi Sư Phụ:
- Vậy con phải học ở 'Thiên' nào mới được đắc pháp?
Vị Thiền Sư đáp:
- Con có nghe qua trong kinh Đạo Học dạy, là Tam Thiên Thế Giới của Trời tuy là một thể, không trước, không sau, không trên, không dưới. Vì Đức Chí Tôn thương đàn con dại, nên Ngài lập ra ba thế giới để dẫn tiến Chơn Linh tu dưỡng Đại Đạo.
1. Thế giới thứ nhất là thế giới hoàn toàn Hư Linh, Hồng Mông huyền diệu; sống bên ngoài của thời gian và không gian vận chuyển; trước sau một chơn khí Hỗn Nguyên; trong ngoài Tam Muội Chơn Hoả đầy đủ. Phần đông các vị Hoạt Phật, Thiên Tôn, đều phải học qua pháp môn Hư Vô Vô Vi. Các vị Hoạt Phật, và các vị Thiên Tôn đều gọi là Chơn Pháp Hư Vô Không Tướng. Cõi nầy được dạy bằng Bạch Tự Chơn Kinh; huyền bí, hoàn toàn huyền bí, siêu hình học. Ở đó là thế giới vô ngôn, vô danh thị.
2. Thế Giới Nhất Nguyên. Ở đây là cõi Hư Linh Chi Khí trở xuống Thái Cực. Thái Cực chia ra ba thể:
- Khí Thuần Âm
- Khí Thuần Dương
- Đạo Trung Dung
Trong khí Âm sanh ra Nhất Dương. Nó là cái mặt trời hiện giờ. Đạo gọi là 'trung Âm hửu Dương'. Trong khí Dương sinh ra một tượng Thiếu Âm để đối lại tượng đó là mặt trăng 'trung Dương hửu Âm' hiện nay. Từ đó luồng khí linh thiêng của Hư Vô chiếu xuống chánh giữa của hai khí Âm Dương để làm thế đạo đức cho Âm Dương không lấn chen khí hoá của mình hơn qua vị trí khác. Chơn linh khí cả Vô Cực kết hợp với linh khí của Âm Dương mới sanh ra chín triệu sáu trăm ngàn vì tinh tú hiện diện khắp Tam Thiên Thế Giới.
Khi Thái Cực lập được ba thể vừa xong, thì tự nhiên trong Trời Đất kết hợp sanh ra ba tầng Đại La Thiên Giới để đại diện Tam Thốn Khí Linh của Vô Cực, để hiển Đạo khắp mọi nơi. Ở đây Thần Tiên Thánh Phật đồng luyện một pháp môn Tiên Thiên Vô Vi. Pháp môn nầy:
Căn Hiền tu đắc Thần
Căn Thần tu đắc Thánh
Căn Thánh tu đắc Tiên
Căn Tiên tu đắc Phật
Căn Phật tu đắc Thiên Tôn.
Pháp môn nầy nó đi kèm với bộ Thiên Kinh - Vô Tự Chơn Kinh - của cõi Đại Tam Thiên Thế Giới, mà hiện nay Sư Phụ lên lớp cho con về lại tu dưỡng tiếp tục cho đắc pháp để vào được hai cõi nầy mà tu dưỡng ba thời pháp của Trời mới thành chánh quả được.
Thời pháp thứ nhất là Huyền Linh Học
Thời pháp thứ hai là Thiên Tượng Học
Thời pháp thứ ba là Pháp Môn Học.
3. Sau khi Tiên Thiên Thế Giới lập xong, thì Trời lập ra Thế Giới Trung Thiên. Thế Giới Trung Thiên lại chia ra ba Thiên:
- Địa Tiên
- Thế Giới Nhân Loại
- U Linh Giới - cõi Âm.
Ba thế giới nầy bao gồm Thần, Thánh, Tiên, Phật, của cõi Địa Tiên. Tất cả phải đi theo sáu đường tiến hoá, gọi là Lục Đạo Luân Hồi, chuyển thân hoá kiếp không ngơi nghỉ. Cho nên Thượng Đế cho dạy các pháp căn bản hửu vi và một số kinh pháp hửu vi cho tới vô vi pháp môn, để dạy cho người biết tu dưỡng tinh thần, phục hồi thể lực. Còn kinh pháp là dạy Ngũ Luân, chỉ đường tu giải thoát. Nhưng giải thoát từ phàm thân mà xuất thần để tu về Trung Giới, để học Tâm Pháp Vô Vi Tiên Thiên, thì mới biết cách hiệp khí hoá Âm Dương, điều hoà mệnh lý, mà sanh ra Thánh Thai lập đảnh an lư, để về lại Đại Thiên Thế Giới, thì mới thật sự giải thoát, hoàn toàn Chơn Linh siêu thoát.
Còn phần đông các vị sư phụ đem các pháp Hậu Thiên dạy pháp môn sơ thiền căn bản phổ truyền trong quần chúng, để tập cho thể lực dồi dào mà an dưỡng đạo đức, cho kẻ dữ biết làm thiện, cho người thiện biết làm việc thiện, giúp hiền, độ khó, nâng đỡ lẫn nhau, tương thân tương ái. Cho nên các pháp nầy ai ai tập luyện cũng được. Còn Tâm Pháp của Đạo Gia, không phải muốn học là học được.
Tâm Pháp dạy cho người có duyên
Tâm Pháp dạy cho người có Đạo
Tâm Pháp dạy cho người có căn cơ
Tâm Pháp dạy cho người lành Đạo.
Tâm Pháp là Linh Bảo của Trời
Là ngọc linh thiêng của người
Ai được nó như được Pháp Như Ý
Ai hành được nó như thâu lòng Trời vào mình.
Hửu duyên gieo giống xuống
Trời Đất sẽ sanh dưỡng
Vô duyên không có giống
Vô giống chẳng sanh tông.
Nhà Thiện Trí Thức hỏi: "Sư Phụ, có cách nào để con dễ tu đắc Tâm Pháp không?"
Vị Thiền Sư dạy: "Tâm Pháp là Tâm của Trời, Pháp của Phật. Người hành Tâm Pháp nên luôn nhớ kỹ những quy định sau đây:
1. Luyện Pháp quy Tâm
Ứng biến vạn pháp.
2. Luyện Pháp quy Không
Chế ngự muôn cảnh.
3. Luyện Pháp quy Nhất
Ứng đối vạn lý.
Không lấy Có làm nền
Có lấy Không làm nhà.
Có Tâm như không Tâm để hoà vào thế giới Huyền Không Hư Linh Chi Khí, huyền hoá đến vô cùng.
Có Tánh như không Tánh để hiệp nguồn chơn lý Nhất Nguyên. Không hình bóng, làm chủ muôn ngàn hình bóng, nắm giữ Càn Khôn, điều hành Vũ Trụ.
Đạo lấy Tâm làm bổn lai
Pháp lấy Tánh thâu diện mục.
Minh Tâm tỏ bổn lai
Kiến Tánh rõ diện mục.
Đến đây:
Tâm Pháp, ngộ Pháp Không
Tâm Đạo, ngộ Đạo Không.
Nhất Không hiệp khí hoá Hư Vô
Nhị Không hiệp Ba Ngàn Thế Giới.
Trời không tâm
Là Linh Khí cõi Hườn Đồng.
Cõi không tên
Là nguồn pháp Đại Quang Minh.
Phật nơi đây vô tướng
Nên luyện pháp không tánh.
Tiên nơi đây không tên
Nên luyện pháp không tâm.
Tánh là lý của Trời
Tâm là Đạo của Phật.
Hiệp Nhất Nguyên vạn pháp quy tâm
Nơi không động ngàn tánh hiệp nhất.
Biển Đạo vốn không tình
Lại sanh ra muôn vật.
Cửa Đạo vốn không tên
Lại làm chủ Trời Đất.
Đến được nơi Đạo Lớn:
Tu như không tu
Không tu như tu.
Bậc thượng sĩ ngộ nơi không Đạo
Bậc hạ sĩ ôm tranh Bá Đạo.
Bậc thượng sĩ không đức
Bậc hạ sĩ chấp đức.
Bậc thượng sĩ vô tranh
Bậc hạ sĩ ham tranh.
Học thượng nhân
Luôn giữ tâm trống lòng không.
- Mới hiệp Đạo tưởng như không có
Mà có cả Hư Không.
- Mới ngộ tánh tưởng như không tình
Nhưng lại hiệp Một vào biển yêu của Thượng Đế
Tình yêu bắt nguồn từ thời Nguyên Thuỷ, yêu trong lặng lẽ vô tư mà không lòng vị kỷ.
- Mới đốn pháp tưởng như không linh
Nào ngờ ngộ Không là chưởng quản muôn pháp.
Ngộ Không khai mở Linh Tâm
Đạt Đạo linh ứng khắp cả.
Tâm Không là tâm Chí Thiện
Tánh Không là tánh Chí Nhân
Pháp Không là pháp Chí Thánh
Đạo Không là Đạo Trường Sanh.
Mới ngộ cảnh Không
Dường như không động.
Mới ngộ Trời Không
Hình như trong trống.
Mới ngộ Chơn Không
Lòng như thông suốt.
Thành được Đạo Không
Trí tuệ suốt thông.
Biết được Đạo Lớn vô hình
Nên giữ lòng trong sạch quân bình.
Biết được Phật Lớn không tình
Bổn lai diện mục đều linh.
Nhân chi sơ tánh bổn thiện
Đạo ban sơ vô hình tướng.
Mỗi con người còn thân, nên còn dùng pháp
Đã thành Đạo Chơn Nhân, pháp tức Tâm Pháp.
Đạo Hửu Vi
Hậu Thiên dạy nơi cái Có.
Đạo Vô Vi
Tiên Thiên dạy chỗ ngộ Không.
Ngộ Không đả thông
Đạo thông chí công.
Tịnh Không thanh Không
Hiệp Không hườn Không.
Trống Không, Không Không
Hửu Vô về Tông.
Pháp vô tướng ngộ cảnh Trời không sắc
Đạo vô hình giải thoát cái trần tâm.
Tâm tĩnh Thần giao
An vậy lặng vậy.
Tâm giác Thần linh
Văn minh Phật Pháp.
Nhiếp tâm trung hoá giải phàm tâm
Thâu nguyên khí kết thân lập mệnh.
Trước dùng tĩnh để tịnh
Sau dùng thanh để định.
Tỉnh lòng trần tịnh luyện pháp môn
Thâu thanh khí Thuần Dương nhập định.
Lấy khí thanh xuống giải tâm
Thâu chơn khí về mở khiếu.
Tâm khiếu hiệp nhất
Đạo được viên dung.
Thông Đạo Tâm ngàn pháp đều linh
Mở Huyền Khiếu văn chương tiến sĩ.
Tiến đức tu thân minh Đạo
Sĩ tử minh hiền đắc Pháp.
Đến đây Đạo trong lòng đầy ấp, con nên giữ đức, đừng để cho tràn ra.
(Hết trang 19.)
(Tiếp theo trang 125.)
III. Đạo Lớn Không Hình
Vô hình vạn vật đều linh
Vô tình đạt Đạo giải thoát.
Đến đây nó có một cảnh giới phân biệt
Người tu phải đi tới chỗ vô nhiễm, vô chấp, thì mới vào được chỗ đại triệt, đại ngộ.
Tâm sanh Phật diệt Phật
Tâm sanh Ma diệt Ma.
Trước vô ngã, sau không chánh tà
Trước phi sắc, sau phi phi tướng.
Tánh sanh phân biệt diệt phân biệt
Tánh sanh thiện ác diệt thiện ác.
Đạo cao nhất là phi ngã, diệt danh
Pháp cao nhất là phi thiện, phi ác.
Không mình tức vô ngã tướng
Không người tức diệt ngã tướng
Không chúng sanh tức diệt phàm ngã, diệt luôn vô ngã.
Có diệt tận gốc của chơn tâm
Thì Đạo Vô Sanh mới hiện hửu.
Mới đắc pháp hườn Không đạt Đạo
Mới thống nhất vào chơn lý Vô Hình.
Diệt được tâm sắc tướng
Chơn tịnh tâm mới sanh.
Diệt được cái ngã tướng
Chơn Đạo mới hiệp về.
Phật đạt không hình
Hư Không tâm kính.
Phật đạt văn minh
Minh định Thái Không.
Thuyền pháp lái qua sông
Nhìn giữa dòng đổi xác.
Bốn phương thông đạt
Sáu Cõi Ba Nhà.
Vào Bảo Giang lái thuyền giữa Thiên Hà
Tâm thanh Đạo, Kỳ Sơn thơm lạ.
Đem thuyền pháp vào dòng sông ngộ
Đò vô tâm chở khách hửu duyên.
Giống Bồ Đề mọc lại Nam Thiên
Chuyện Thuỷ Hử anh hùng kết nghĩa.
Đạo khai mở truy hàng tòng bá
Đò Long Hoa mời bậc nhân hiền.
Chơn Lý Lộ Thiên
Nối Vòng Hai Tám.
Nhạc Trời trổi giữa Hư Không
Phổ truyền Đạo Đạo Chơn Không.
- Hết -
(Hết trang cuối.)
(Tiếp theo trang 108.)
Tiếp theo Thầy giảng về phần:
II. Phật Lớn Không Tướng
Bậc chí thượng hành Đạo
Không chấp vào sắc tướng
Nên Chơn Đạo giác ngộ
Không còn vướng trở ngăn.
Phật Lớn không màu
Chí thiện đại giác.
Phật Lớn không sắc
Không nhiễm cảnh vật.
Phật Lớn không tranh
Vô Thinh Chi Bảo.
Phật Lớn không Đạo
Giải thoát hoàn toàn.
Phật Lớn không giáo
Linh Đạo hiển thân.
Phật Lớn không nhân
Thân sơ diệt ngã.
Phật Lớn không ân
Hoàn Thiên làm cả.
Phật Lớn không tướng
Không vướng phân tranh.
Phật Lớn không hình
Niết Bàn chơn ngã.
- Phật Lớn Không Màu
Đạt Đạo Lớn diệt lòng phân biệt
Thiện ác không sanh
Chánh tà vô nhiễm.
Đạo mình mình ngộ
Đạo người người giác.
Lòng chí thiện là lương tâm đại giác
Đại là lớn
Giác là Toàn Chơn.
Đã đạt Đạo Toàn Chơn thì độ cả thiện lẫn ác.
- Phật Lớn Không Sắc
Hành Đạo toàn thiện không chấp vào cao thấp phân chia, trình độ nào cũng độ được.
Người hành Đạo gương mẫu, mực thước, là người có đầy đủ khoan hồng độ lượng.
Hoà mình vào chỗ phân biệt của nhân sanh, mà lòng toàn thiện, không bị nhiễm vào nghiệp quả của chúng sanh. Tự do dạy người độ chúng.
Người đã đạt Đạo thì không bị nhiễm vào cảnh vật. Cho dù vào đời ăn mặc như mọi người để cho phù hợp với phong thổ địa phương, mà lòng thì vô tư, luôn phổ truyền Đạo Pháp.
Vô vật vô tâm
Tuỳ duyên hành độ.
- Phật Lớn Không Thanh Âm
Nghe mà như không nghe. Nghe sự phải quấy, phân biệt, cao ngạo, của các giới. Nghe rồi lại bỏ tức thị không nghe.
Ở giữa thanh âm mà lòng không động, ở giữa chỗ phân tranh mà tâm luôn thanh tịnh.
Hành Đạo chỗ ồn ào
Tịnh tâm mới Đạo cao.
Vào đời trong dục vọng
Không động, thật giải thoát.
Nghe đó bỏ đó
Không nhiễm vào nó.
Biết đó bỏ đó
Không buộc vào nó.
Hiểu đó lặng đó
Thanh tịnh trong nó.
Còn Vô Thinh Chi Bảo là không nhiễm vào âm thanh thì không bị lòng dục vọng khuyến dỗ, thì mới giữ được Linh Đạo Toàn Chơn.
Trời dạy không có lời
Người ngộ Đạo nghe thấu.
Phật dạy không văn ngôn
Người giác Đạo hiệp được.
Tiếng Trời không âm thanh
Truyền Đạo bậc đắc thành.
Lời Phật trong thanh tĩnh
Thiền định được ngộ Không.
Liễu Đạo không có kinh văn
Dưới trên thiên chân một thể.
Ngộ Đạo không có âm thanh
Vô Thinh Chi Giáo Thượng Đế.
Bậc ngộ Đạo, buông Đạo nên đạt Đạo
Bậc thành Đạo, giải tâm đạt siêu thoát.
Phật Lớn vô thanh
Thành Đạo vô tranh.
- Phật Lớn Không Đạo
Người đạt Đạo, hành Đạo vì trồng nhân.
Tu dưỡng để gieo duyên
Không chấp Đạo mình là chánh
Không chê Đạo người là tà.
Lòng không cầu danh giữa thế đời, nên không nhiễm tà chánh.
Lòng hành Đạo vị tha, nên không chấp vào hơn thua.
Đạo Lớn của Chư Phật là lòng từ bi vô ngã
Cứu khổ ban vui, dạy người vô vị kỷ.
Đức Lớn của Chư Phật là cái độ lượng vô bờ bến
Đến đâu dung chứa đến đó.
Như hồ lớn chứa nước của Trời, nuôi người dưỡng vật.
Như biển lớn vời vợi mênh mông, cho thiên hạ thả thuyền lớn qua lại thảnh thơi, Năm Châu kết bạn.
Tự do giữa biển khơi
Nhìn trời cao vời vợi
Hưởng trọn vẹn khí lành
Giác ngộ cứu nhân sanh.
Đạo Lớn trên biển chu du
Phật Lớn lái thuyền độ chúng.
Độ lớn trong giữa nhân duyên nên áp dụng
Lượng lớn đưa thuyền pháp đi trong Ngũ Châu.
Có độ lượng đi đâu cũng thông thả
Giữ độ lượng nhàn nhã sống tu thân.
Độ lượng không nhân
Tự nhiên cảm nhận.
Độ lượng luôn giác minh
Nên ngộ Đạo viết kinh.
Đến đây các con mới thật sự:
Giải thoát Đạo của mình
Giải thoát Đạo của người
Giải thoát Đạo cho đại chúng.
Lòng không thắc
Tâm nhân sanh không mắc
Là đi đường cứu cánh vô sanh.
Vô sanh thường Đạo vãng sanh
Vô tranh thường Đạo lợi sanh.
Giải tới chỗ vô tranh
Thoát khỏi tâm chúng sanh.
- Phật Lớn Không Giáo
Tôn giáo là màu sắc
Vào đời là nhiễm trược.
Áo dơ vì trược dục, nếu chịu khó giặt thì sẽ sạch
Còn màu sắc bị dính vào, thì tẩy rửa lâu ra.
Người hành Đạo giải thoát chỉ biết dạy mình
Thiên hạ Trời dạy, giác mình thiên hạ tự ngộ.
Không đời cho tâm trí an nhiên
Không tôn giáo cho viên dung mối Đạo.
Đời vì chấp ôm nguồn tôn giáo
Ta nhờ thông theo Thiên Lý về Trời.
Dù có ôm Đạo cũng bị luân hồi
Ta bỏ cả, vô tư giải thoát.
Đời có một vật
Chúng sanh xẻ chia ba.
Đời có mười vật
Phân tranh lập ngôi truyền bá.
Phật Lớn dạy không lời
Nên yên lòng thiên hạ.
Phật Lớn dạy vô sư
Thiền định ngộ Chơn Như.
Thầy của bậc Đạo cao
Minh giải thật sáng suốt.
Đạo của bậc giải thoát
Không đi trong ràng buộc.
Còn ràng buộc là còn chấp vào mắc
Còn chấp mắc là còn chúng sanh tâm.
Đạo Lớn không phân
nên hiệp Đại Thể.
Phật Lớn không chia
nên vô ngã, vô biên.
Tịnh lặng lúc tham thiền
Lòng yên giữa thế thái.
Định lý trí được yên
Nên vô phiền hết não.
Ngộ chơn kinh Linh Bảo
Nên biển Đạo hiển linh.
Huệ thông tánh Thái Bình
Trong nhân sinh một thể.
Đạo khai trí định huệ
Nguồn kinh kệ hiệp về.
Bồ Đề vốn vô sanh
Người thành Đạo vô danh.
Minh Cảnh vốn vô tướng
Phật Đạo, Đạo trường sanh.
Đến đây:
Linh Đạo hiển thân
Trong ngoài thông suốt.
Dưới trên không ràng buộc
Sau trước được viên dung.
Lên tiếng cười to
Giữa trời rộng lớn.
Đạo Lớn không hình
Hiển linh khắp cả.
Ta là vô tướng
Chơn Đạo trường sanh.
Vạn vật sanh thành
Nhân duyên Trời Đất.
Ta vốn vô tâm
Hiệp Trời thông Đất.
Sống ở giữa Trời Đất
Lòng an tịnh vô vi.
Tiên Phật đến rồi đi
Siêu nhiên thật thanh nhẹ.
Phật bổn vô hình
Năng hành Phật Đạo.
Văn bổn vô tự
Chơn Kinh Linh Bảo.
Đến đây là giới ngộ Không
Vào đây là cảnh không lòng.
Tà tà mở cửa Thánh
Chánh chánh chẳng nhiễm trần.
Chánh tà không buộc thân
Đạo Chơn Nhơn sống mãi.
Khờ khờ mà không dại
Dại dại lại tinh thông.
Nhờ tu dưỡng trống lòng
Mà ngộ Không, đạt Đạo.
Ta nên học Trung Dung
Chánh nên tự áp dụng
Mới tới chỗ Toàn Chơn.
Chánh chưa phải là đúng
Tà chưa phải là sai
Vì cả hai chưa áp dụng
Đạo Toàn Chơn là Trung Dung.
- Phật Lớn Không Nhân
Tâm chúng sanh có thân sơ, của mình, của người
Bậc giác ngộ, tất cả nhân sanh như con đẻ, nên không còn chỗ của mình, của người.
Đi tới muôn nơi chỉ đường dẫn lối
Lên xuống muôn phương độ khách luân hồi.
Tỉnh một câu kinh văn cho bốn phương nhuần gội
Giác một lời lành khai sáng trí nhân sanh.
Tiếng chuông Lôi Âm vang giữa rừng đạo đức
Bậc nhân hiền tỉnh thức giải lòng mê.
Đạo Lớn cửa Bồ Đề mở rộng
Bậc chí nhân soi tỏ lui về.
Giữa chốn trần mê
Mây giăng che phủ
Ánh sáng thiên không
Chiếu xuống tan mây.
Sau trước tỉnh say
Giải đời thức Đạo.
Xa xa nơi huyên náo
Tĩnh tĩnh giữa biển người.
Trầm trầm nơi dục giới
Thanh thanh Đạo của Trời.
Định định trong thiền giác
Ngộ mình khắp mọi nơi.
Sóng bổ tung tăng
Lòng tu chí tịnh.
Đời rối lăng xăng
Tánh linh đã định.
Hư Không ngâm vịnh
Vạn sự lòng không.
Ai ở tâm trong
Nghe đờn Thiên Trúc.
Ai đến Vô Vi
Sáo Trời tì ti.
Cửu Khiếu khai thông mạch lý
Thiên nhiên hiệp thức vào lòng.
Cái Có, cái Không
Lòng ta vô sự.
Cái chánh, cái chơn
Tròn tròn luôn giữ.
Người đến Trời Không cảnh xa tình lặng
Người ngộ vô danh lánh xa hình tướng.
Trên giữ Trung Dung
Ta đi đến cùng.
Trong giữ Trung Dung
Hoà vào Hư Không.
Vào đời Trung Dung
Tự nhiên không động.
Sống không hình bóng
Lồng lộng vô tư.
Vô tư Không-Hư
Vô tư Chơn Như
Vô tư Đạo Trời
Vô danh không lời.
Thơ
Tôi có vô tranh của Đất Trời
Hiệp vào Nhà Lớn sống yên nơi
Ban vui cứu khổ không ngần ngại
Thức được hồn thơ giữa biển người.
Giải được mộng trần giải được tâm
Hoà Không hiệp thể tỏ trăng rằm
Tình đời tình Đạo luôn không nhiễm
Nhẹ bước về Không, vui với tâm.
- Phật Lớn Không Ân
Phật Lớn không nhiễm ân tình luyến ái
Còn luyến ái thì duyên nợ trai gái phát sanh
Còn luyến ân dây loan tơ hồng còn ràng buộc.
Trước trói bước người chơn tu
Sau trói lòng bậc giải thoát.
Cảnh ái hiện ra, dùng Quán Bạch Cốt hoá giải
Biển ân hiệp lại, dùng Pháp Thuỷ khử trược lưu thanh.
Ở trong chúng sanh không tránh khỏi tâm ái không sanh
Ở trong biển ân không sao tránh khỏi sự ràng buộc.
Đến đây các con cần phải biết luyện tánh như sen:
Bùn nhơ không nhiễm khoe màu sắc
Giữa thế không tâm đi đường Phật.
Sen mọc nơi trần
Hướng dương đạt pháp.
Thân sen giữa thuỷ
Vị kỷ tiêu tan.
Tánh luyện khí Xuân
Hạo Nhiên hiệp thể.
Lòng giữ vô trần
Thành con Thượng Đế.
Ở hồ Tiên sống an nhiên lặng lẽ
Ở hồ trần nhìn cá vàng bơi lội thảnh thơi.
Sau trước vô tâm
Mới thoát biển đời.
Sau trước thông minh
Lìa ân diệt ái.
Lòng vì thọ ân sanh ra biển ái
Lòng vì dục vọng trói lại làm người.
Tỉnh Đạo biển ái chẳng dám vui
Ngộ tâm thọ ân biết hoá giải.
Tri nhân, tri Đạo, bất tri tâm
Lòng nhân hành Đạo quên thân sơ.
Phật Lớn luôn dưỡng lý tu thanh
Nhân Lớn luôn dưỡng Đạo độ hành.
Mộng trần tan biến
Đạo thể hiệp về.
Mộng trần diệt mê
Bồ Đề tỏ ngộ.
Thân sơ luôn hành độ
Đạo đức mãi vun bồi.
Vào đời không có ta
Tỉnh đời không ôm Đạo.
Không ta, không ái, không ân
Không tình, Đạo Nhân đại định.
Biển ái nguồn ân điển linh đốt sạch
Giác tánh giải mê thành bậc giải thoát.
Thông suốt chỗ nên hư
Luôn hành Đạo vô tư.
Đạt đại giác nhờ thông biển ái
Hiệp Đạo Trời nhờ đạt Thiên Ân.
Nhân đến chỗ cùng tột Chí Nhân
Thì thành người vô tư đạt Đạo.
- Phật Lớn Không Tướng
Việc nhân nghĩa thiên hạ có thì ra phò trợ giúp.
Các con nên luôn nhớ kỹ chỗ:
Phật Lớn không tướng
Không vướng lợi danh.
Làm việc vì nhân sanh
Hành độ vì Đạo Lành.
Phật Lớn không tranh
Thuận duyên thì Đạo phổ hành
Nghịch duyên yên phận tu dưỡng.
Bậc thượng đức không tranh
Để giữ đức hiếu sanh.
Bậc thượng đức vô danh
Phò Đạo không vì lợi danh.
Bậc thượng đức vô trần
Trên cao biết khiêm nhường
Xuống thấp biết yên phận.
Tình không động vào trần bất nhiễm
Đạt vinh hoa nên thí đức thi nhân.
Bậc thượng học vô văn
Văn ngôn là phương tiện của Trời
Dùng điển kiến trúc cho Thánh Nhân
Viết lại để độ người dạy chúng.
Học Đạo là tầm chỗ siêu giác linh thiêng
Không vì văn tự mà chấp Có bàn Không, tổn đến đạo đức của Trời Đất.
Văn chí thượng là điển văn vô tự
Là mật ngôn, linh ngữ của Phật Gia.
Pháp Phật cõi Đại La
Là Vô Thinh Chi Bảo.
- Đạo Học Văn Hoá -
Hoá Văn thành Điển
Hoá Điển thành Khí
Hoá Khí thành Tinh
Hoá Tinh thành Thần
Hoá Thần hiệp Đạo
Hoá Đạo hiệp Không
Hoá Không hiệp Không
Trời Đất thông công.
Trời Đất thông công
Chơn Nhơn vô lòng
Đạo Chơn vô tánh
Phật Chơn hườn Không.
Nhất lý khai thông
Tâm đồng Trời Đất.
Không lý khai thông
Hườn đồng cải lão.
Nhỏ tới chỗ Toàn Chơn
Thành Kim Thân Chơn Nhơn.
(Hết trang 124.)
CHƠN ĐẠO TAM KHÔNG
🔆
Chơn Đạo Tam Không
Giải Thoát Toàn Chơn.
Chơn Đạo Tam Không đốn ngộ thiền
Giải đời thoát Đạo hiệp siêu nhiên
Hoàng dương Đạo Pháp Toàn Chơn hiển
Sáu Cõi Ba Nhà hiệp hoá duyên.
Hôm nay có duyên lành, Thầy sẽ giảng cho các con hiểu về cái lý Tam Không đạt Đạo siêu thoát hoàn toàn. Đó là:
Nhân Lớn Không Danh
Phật Lớn Không Tướng
Đạo Lớn Không Hình.
I. Nhân Lớn Không Danh
1. Giác ngộ tới chỗ Toàn Chơn
Mà làm như không giác ngộ.
Tu mà như không tu
Luyện mà như không luyện.
2. Độ cho hết nhân loại
Mà lại làm như chưa bao giờ làm.
Xả mình cứu đời độ chúng mà không tính công
Lao nhọc luyện tập nâng cao pháp giới mà không phiền hà sự mệt mỏi sanh mạng, một lòng chí công vô tư.
3. Đứng trên thiên hạ không thấy có mình
Đứng dưới thiên hạ không thấy động tình.
- Đứng trên thiên hạ trợ Đạo cho người hiền sĩ, trí sĩ, nhân sĩ, hiền tài.
Phò trợ việc nhân nghĩa cho thiên hạ mà lòng vô tư thanh tịnh.
Phò Đạo của Trời khai hoá cho nhân sanh, truyền đời đồng hành phật sự mà lại không nhận công, chí nhân, chí thiện.
- Đứng dưới thiên hạ lại biết nhún nhường, khiêm cung, lễ nghĩa, yên phận. Đợi thời của Trời, đợi sự tiến cử của người.
Dưỡng Đạo lúc không công
Yên thân để luyện trí.
Bình giải trí tịnh tu
Nhàn du giữa sơn dã.
Luyện lòng Không để hiệp trí không động
Luyện tánh Không cho trống nhân duyên.
Dốc sức học linh thiêng
Định tâm khai diệu lý.
Nhàn thân để học Đạo
Diệt trí nhàn cư bất thiện.
Đời sống thanh cao không vì nghèo mà không làm được
Một túi cơm, một bầu nước, giữa rừng tòng bách, để cho trí Hư Vô luyện Đạo Thái Không.
Luyện Đạo, về bến vô tư
Khai tâm, cầu kinh chơn giải.
Cầu tiến thân trong định lý tham thiền
Tỏ ngộ Đạo luyện tâm bất tử.
Tới lui với bậc thiện trí thức
Để học cao kiến giữa nhân sinh.
Học Chơn Đạo không có mình
Hoà đồng cùng Đại Vũ Trụ.
Học nhẫn nhục không có người
Lòng vô tư thương yêu tha thứ.
Chí công trong việc tu dưỡng siêng năng
Vô tư trong việc giác ngộ Đạo Lớn.
Việc của thiên hạ là việc của Trời
Đạo đức của thiên hạ là đạo đức của người.
Vào trong thiên hạ xây nền tảng giáo pháp
Đứng ngoài thiên hạ dựng nhà lớn vô tư.
Trên trọng Đạo, thờ Trời, Hư Vô tĩnh tĩnh
Dưới dạy người thành bậc chí công chơn sư.
Vì đời mà truyền nhân
Vì Đạo mà truyền đời.
Sống trong đời hoà cùng đại thể
Tỉnh yên người khai huệ thông tâm.
Trợ khí cho người phục thể hoàng dương
Tỉnh lý cho người mở đường tu dưỡng.
Chỉ chỗ lý số
Dạy chỗ huyền cơ.
Làm tất cả mà lại không thân sơ
Tuỳ duyên ngộ mà trợ hành khai hoá.
Đứng trước lòng nhân lại vô tư
Thành bậc danh sư lại vô tướng.
Nhã nhặn để giảng kinh
Thâm tình để giáo hoá.
Yêu tất cả chúng sinh như con đẻ
Thương tất cả vạn vật như em thơ.
Có cả thiên hạ mà lòng như không có
Giữ lý quân bình cho thiên hạ kỉnh tôn.
Đạo nhân mở ra dạy cho tất cả
Chơn lý phổ ra gieo duyên truyền bá.
Cho đời học chổ đường Đạo cao siêu
Cho người hoà cảm Tình Yêu Đại Thể.
Biển lớn một màu xanh rộng xa muôn dậm
Nên nuôi hết các loài thuỷ tộc như biển nước không lòng.
Trời lớn bao la chứa hết sự phân biệt của thiên hạ
Mà luôn ban khí linh nuôi chung tất cả.
Lòng nhân lớn vô tư, thương người quý yêu vạn vật
Mà luôn để nó tự nhiên sanh sanh hoá hoá.
Nhân chí thượng, đức lớn không lòng
Trong ngoài dưới trên trống trống.
Xa xa như ở gần gần
Gần gần như trong nhà lớn.
Hoá hình lúc định tâm
Luyện mình cho linh tánh.
Thầy giảng cho các con thấy được cái lòng nhân lớn của người mà hành xử cho đúng với cái đạo đức của đời Tân Dân Minh Đức.
- Lòng Nhân Lớn -
Kỉnh người để hoà chớ không đồng
Minh giải để hiệp chớ không theo.
Liên kết để hoá giải biết tự lập
Giáo dưỡng để dạy biết tự khai sinh.
Người nhân chấp vào đức
Mình giữ chỗ không đức.
Người nhân chấp vào Đạo
Mình giữ chỗ yên Đạo.
Người nhân chấp vào nhân
Mình giữ chỗ không mình, không người.
Người chấp đức, còn nằm trong nhân nghĩa ràng buộc
Mình học Đạo Giải Thoát, đứng trên nhân nghĩa
Mà luôn luôn biết trợ nhân hành nghĩa.
Người chấp Đạo còn ôm lòng Bá Đạo phân tranh
Mình học Đạo Siêu Thoát vượt ra vòng phi tướng
Mà vào đời, trong tâm hành Đạo vô tranh.
Đạo bất tranh hiệp thân Trời Đất
Đức bất tranh linh ứng vô biên
Nhân bất tranh hoà đồng giáo pháp.
Người chấp nhân duyên nên ôm cái có để giữ
Mình học Đạo, trong lòng không giữ chỗ mê danh.
Bỏ ác hành thiện
Đạt vô thiện ác.
Bỏ thiện hành ác
Trở thành đại ác.
Không thiện không ác
Chí nhân, đại giác.
Người có lòng chí nhân đại giác thì mới thành bậc siêu phàm xuất Thánh đạt Đạo.
Đạo người vô danh là không thiện
Đạo người vô tranh là không ác.
Vô danh lòng sanh thiện đức
Vô tranh lòng sanh đại đức.
Trời Lớn vô tranh dung chứa tất cả
Đất Lớn vô tranh nuôi chung thiên hạ
Người Lớn vô tranh là bậc giác ngộ hoàn toàn.
Cải tánh là bỏ đời tầm Đạo
Diệt danh là phổ Đạo vào đời.
Đạt Đạo vô danh
Linh thiêng tự ứng.
Đạt Đạo vô tranh
Nhân sanh tự hoá.
Đến cõi vô danh Hư Không chơn ngã
Đến cõi vô tranh Niết Bàn cao cả.
Trời thiêng lọc khí khinh thanh
Đạo tịnh trống lòng linh ứng.
Hơn thua là lòng của chúng sanh
Vinh nhục là tâm của đại chúng.
Đạo Lớn không muốn hơn người
Đức Lớn không đua với người.
Trước giữ bình tâm
Cho thiên hạ tự bình.
Sau giữ lặng tánh
Cho thiên hạ tự yên.
Bình giải kinh thơ thâu diệu lý
An nhiên lặng lẽ mở huyền cơ.
Tánh động dùng bình tâm hoá giải
Tâm an tỉnh lý tỏ thiên văn.
Trước sau không để nhiễm trần
Trong ngoài tánh linh thông thả.
Làm hết cả thiên hạ
Lòng vô thuỷ vô chung.
Độ hết cả nhân loại
Tánh thư thả trung dung.
Vô danh lấy thiên hạ làm Đạo
Vô tranh lấy thiên hạ làm thầy.
Hay để kiến trúc
Học để tỏ ngộ.
Dở biết huỷ bỏ
Văn minh mở ngỏ.
Hay kiến trúc theo thiện đức văn minh
Dở huỷ bỏ để khai rộng văn hoá.
Đạo Lớn giữa cái Không
Không nên ôm cái Có.
Giải thoát hiệp văn minh
Không nên ôm cố chấp.
Tiến vào trời Không vạn vật quy tông
Tiến vào chỗ Có vạn sự gò bó.
Ngòi bút lớn lấy pháp thuỷ làm mực
Tâm Đạo lớn lấy thiên hạ làm nền.
Nhân duyên của chúng sanh, mỗi mỗi theo đó dựng thành hàng cột lớn.
Để Trời cất nhà lớn cho hàng thiện đức.
Cho tất cả nhân loại về gặp lại Cha Mẹ của Linh Hồn.
Nhân Lớn vào động không động
Luyện tịnh trong động, chế động
Luyện thanh trong động, tĩnh động.
Chế động hoá giải các nhân duyên
Tĩnh động hoà đồng pháp môn giáo dạy.
Nhân Lớn vào đời không nhiễm:
- Không nhiễm danh
an phận, tĩnh tu, dưỡng Đạo, phổ đức.
- Không nhiễm tình
không sanh chúng sanh tánh, chấp có bàn không.
- Không nhiễm nhân duyên
tự do ngôn luận, bình đẳng, minh giải tới chỗ siêu thoát,
không lòng, vô tư, lặng lẽ.
Không mình để chơn lý tự sanh
Không người cho chúng sanh tự thức.
Vào đời thực hiện lòng chí nhân.
Nơi nào cầu, tự cung
Pháp nào cầu, tự độ.
Nhân nào cầu, tự giác
Lòng độ đời giác tha.
Tâm thanh cho mỗi người thanh bình
Mỗi người thanh bình cho thiên hạ Thái Bình.
Người thanh chơn lý phổ truyền xa
Đạo bình thiên hạ hưởng phước lớn.
Đạo thanh
Giải thoát cho đời vượt chỗ phân biệt.
Người bình
Đem lại sự Thái Bình cho thiên hạ tự an dưỡng.
Một người thành Đạo
Một hoa tâm khai.
Mười người thành Đạo
Thiên hạ có bậc chơn sư.
Ngàn người thành Đạo
Quốc gia có bậc phụ mẫu.
Triệu người thành Đạo
Đi tới thế giới đại đồng.
Cả thế giới thành Đạo
Quả cầu hoàn toàn Thuần Dương.
Quả cầu Thuần Dương
Thành cõi Thiên Đường
Vạn linh một Đạo
Thế giới Toàn Chơn.
Đạo đến đây Chơn Linh đạt toàn giác
Đức đến đây hoà hiệp với đại lượng vô biên
Nhân đến đây hoà đồng trong sự đại giải thoát.
Người ham tranh là vì chưa hiểu
Ta hiểu rồi hành Đạo vô tranh.
Người cầu danh là vì chưa liễu ngộ
Ta đã đạt liễu ngộ thì dạy chỗ vô danh.
Người tham dục là vì chưa giải được
Ta giải được rồi nên tạo phước cho người.
Người tham cầu vì ôm giới động loạn
Ta đạt tịnh nên chỉ người luyện Đạo khinh thanh.
Đời vì mê nên sanh Có
Đạo nhờ giác mới ngộ Không.
Đạo vì ôm nên chấp
Đạo giải thoát vô sanh.
Sanh trụ đi qua nhanh
Hoại diệt theo năm tháng.
Vô tranh sống thanh thản
Vô danh sống an nhiên.
Người thanh thản ngộ đường giải thoát
Lòng an nhiên về được Đại La.
Tình Lớn không có ta
Mà dung chứa tất cả.
Đạo Lớn không có danh
Mà sanh cả thiên hạ.
Nhân Lớn sống an nhiên
Mà linh thiêng vô ngã.
Cái Có cái Không
Mênh mông vô tận.
Đạo Có, Đạo Không
Vô tư tịch lặng.
Thái Bình giữa trời cao
Phật Tiên đồng một thể.
Linh thiêng giữa không động
Thần Thánh sống một nhà.
Người ngộ Đạo nhận làm Cha
Người siêu thoát nhận làm Thầy.
Bậc Chí Thượng dạy Đạo không tranh
Bậc Chí Thánh dạy Đạo vô danh.
Diệt phàm ngã chân nhân sống lại
Diệt tham cầu chơn lý hiện ra.
- Học ở đời mỗi lúc càng thêm
Thêm cho tới nặng mình đoạ lạc.
- Học Chơn Đạo phải bớt, rồi lại bớt
Bớt tới chỗ thanh nhẹ để hiệp vào Thiên Lý Toàn Chơn vô hình đạt Đạo.
- Người chấp cho Đạo là Có
Bên trong ôm cái nhân tâm, phàm tâm cố chấp
Bên ngoài giữ của cải của Hậu Thiên để vào chỗ luân hồi.
- Còn người tu giải thoát
Giải tạp niệm cho lòng mình thanh thản
Diệt trần tâm cho Thiên Lý quy gia.
Cải tánh
vào lòng Trời lớn sống bao la.
Diệt danh
hành đạo truyền nhân, vô tranh thanh thản.
Người có, ta không
Vô Vi truyền bá.
Người giữ, ta giải
Thoát cái nhân tâm.
Người muốn có danh
Ta buông tất cả.
Người đến giữ của đời
Ta về hưởng Đạo Trời.
Vô danh không vào phân tranh
Vô sanh không ôm lợi danh.
Cái Có buộc người trong Có
Cái Không trói Đạo trong Không.
Người vì Có sanh lòng tham dục
Đạo ôm Không trói trí trong Không.
Người vì chấp văn kinh nên cả đời bị văn tự trói mình
Ta vào chỗ vô thinh, vô ngã, nên được giải thoát.
Đời ràng buộc lòng ta không ràng buộc
Nên hư thành bại vốn là Không.
Chấp mắc nên bị rối lòng
Giải thông nên được thanh nhẹ.
Đến đây các con mới thấy sự giác Đạo, ngộ Không, của người Nhân Lớn Không Danh.
(Hết trang 107.)
(Tiếp theo trang 87.)
BA LIỀU THUỐC TRƯỜNG SANH
Đây là ba liều thuốc Trường Sanh, Thầy dạy cho các con và các hàng đạo đức tu Tánh luyện Mạng, để hoàng sanh độ thế, tỉnh mình, giác đời, giây phút không lìa nó được.
1 - Lìa Đạo Vô Hình.
Vạn sự hửu tình, mọc ra hửu vi sắc tướng
Phân biệt chánh tà đi ngả chúng sanh.
2 - Lìa Đức Bao Dung.
Sanh ra khiển trách nhân sanh
Ma Lục Dục kéo vào làm ố
Quỷ Thất Tình xô ngả lòng nhân.
3 - Lìa Trí Định Huệ Vô Tranh.
Sẽ sanh ra tranh đấu quyến rủ
Lập ranh giới để phòng thủ trí tài
Sanh nghi ngờ mà làm loạn hàng đạo đức.
Đạo Lớn tỉnh ai không bằng mình tự tỉnh
Tự tỉnh cho mình thì thiên hạ tự tỉnh.
Đức Lớn muốn độ tha phải tha độ cho mình trước
Tha độ cho mình rồi mới đủ phước đi độ chúng sanh.
Nhân Lớn tu cho ai không bằng tu cho mình trước
Thân tâm có liễu ngộ thì mới chỉ ngả giải thoát cho chúng sanh thoát dòng biển khổ.
Chơn ngộ Đạo Không Tâm
Tầm ra nguồn pháp bảo.
Tỉnh ngộ Đạo Không Tánh
Cứu cả chánh lẫn tà.
Hành ngộ Đạo Không Tranh
Nên không cầu danh phận.
- Ngộ Đạo:
Buông tâm, thả ý, trống lòng.
- Tỉnh Đạo:
Vô tư, lặng lẽ, không không.
- Hành Đạo:
Vô tánh, vào trần bất nhiễm.
Tâm Không
Thiên Lý hiệp một vào tâm.
Tánh Không
Chơn Nhơn hiển Đạo hiện rõ.
Tình Không
Không mình, không người, không chúng sanh.
Không Mình
Lòng phân biệt cháy khô
Tâm thiện ác rửa sạch.
Không Người
Trước cửa Đạo không thân sơ
Tất cả chúng sanh là con của Trời
Lòng của thiên hạ là lòng của Trời
Nên không còn ràng buộc trong chánh tà
Độ cho mình và tự giải thoát cho người.
Không Chúng Sanh
Dưới vòm trời, nhân loại con cùng một Cha Mẹ
Trong trần gian là trường học tiến hoá
Nhân của ai gieo thì kiếp nầy tự nhận.
Phổ Đạo như vậy thì vào trần bất nhiễm
Phân biệt không sanh, độ người đi đường lớn
Đó là tâm không ràng buộc của nhân sanh.
Đã tu dưỡng hết cái lòng dục vọng rồi, thì các con phải tu thêm phần trí tuệ, để cho nó hiểu mà làm theo sự minh triết.
Học trí tuệ không theo đường phải quấy
Có thấy nghe bỏ đấy không nghe.
Không thấy diệt tâm phân biệt
Không nghe diệt lối sân si.
Học trí tuệ không theo tư dục
Lòng tham cầu diệt nó đừng theo.
Tham cầu sanh ra ma chướng
Diệt nó là không vướng đường giải thoát.
Học trí tuệ không theo đứa thị phi
Diệt thị phi cho Chơn Thần tỏ sáng nguồn Đạo.
Nghe thị phi còn trong chúng sanh tánh
Khai Chơn Thần là cứu cánh độ tha.
Đường lớn pháp thuỷ mãi ban ra
Thanh tâm dạo chơi khắp Sáu Cõi.
Ngộ Đạo Lớn lòng Trời thoát khỏi
Ngộ Trời Cao nhân ngã cháy khô.
Trí sáng thông Thiên Huyền Học
Huệ cao pháp thuỷ ban cho.
Trí tuệ hiệp một lò
Đạo Trời khai giáo pháp.
Trước Trời Đất không có chúng sanh
Trước Vô Cực không có Trời Đất.
Trước Niết Bàn không có Niết Bàn
Trước không động không có không động.
Cõi vô hình sanh ra cõi hửu hình
Cõi hửu hình sanh ra cõi vạn linh.
Nhất lý quy tâm minh vạn lý
Nhất Đạo quy bổn ngộ vô sanh.
Nơi không động là chơn pháp tột lành
Cõi không động là nhà lớn của Tam Giáo.
Thiên kinh vạn quyển trong một lòng Trời
Ngàn kinh vạn pháp trong một kho Đạo Lớn.
Tu đến đây mới thấy chỗ Chí Nhân
Đạo đến đây mới tới chỗ Giải Thoát.
Thầy giảng đến đây cho các con thấu hiểu, đặng mà tu luyện. Sau nầy Thầy sẽ lên lớp cho các con các bộ môn khác.
Các huynh đệ nghe qua lời Thầy giảng mà từ xưa nay chưa từng được nghe qua sự minh giảng cao siêu như vầy, nên tất cả môn đệ đồng ngồi tịnh tâm cảm ơn Đức Vô Thượng Chí Tôn chuyển tâm cho Thầy khai ngộ, chúng con vô cùng thành kính cảm ơn.
***
(Hết trang 92.)
(Tiếp trang 66.)
Vị Hoàng Đại Tiên tiếp tục giảng thêm về phần:
- THẤT TÌNH LỤC DỤC-
Thất Tình Lục Dục chuyển thể sanh ra lòng tham sanh huý tử. Vì vậy nó mới sanh ra tham sân, tham si, tham hỷ, tham nộ, tham ái, tham ố, tham dục.
Tham Sân
Nóng lòng phát ra sân nộ
Phân biệt sanh ra đấu tranh.
Chánh tà sanh ra thiện ác
Chiến tranh sanh ra thù hận.
Hơn thua sanh ra ganh tị
Lấn chen sanh ra biện bác.
Ganh tài sanh ra ố hiền nhục sĩ
Vinh nhục sanh ra biên giới.
Các con coi đó, chỉ không kềm được lửa giận, mà gây không biết bao điều tổn đến đạo đức. Vì vậy Trời dạy cho hàng đạo đức học theo cách nầy mà chế cái lòng sân giận của tánh chúng sanh:
Bậc thượng sĩ giận về trí tuệ
Bậc hạ sĩ giận về tánh khí.
Bậc thượng sĩ giận mình tỉnh người
Bậc hạ sĩ giận mình làm nhục người.
Thượng nhân tức trí để hoá giải
Hạ nhân tức khí để tranh đấu.
Thượng nhân tức lý để thông suốt
Hạ nhân tranh đấu để chiếm giữ.
Thượng nhân giận mình để cải sửa mình
Hạ nhân giận người để sỉ nhục người.
Thượng nhân vì nhân nghĩa ra làm việc
Hạ nhân vì tư lợi mà làm việc.
Thượng nhân cầu hoà để kết thân
Hạ nhân ganh tài để chiếm đoạt.
Thượng nhân vì đạo đức để khai hoá
Hạ nhân sanh tham cầu để hưởng lộc.
Thượng nhân cầu Đạo không cầu thực
Hạ nhân hành Đạo trong tranh giựt.
Thượng nhân cầu hiền để truyền đời
Hạ nhân ganh hiền để chiếm đoạt.
Bậc thượng sĩ giận là biết tỉnh
Tỉnh cho người và tỉnh cho mình
Ra công cải sửa cho linh
Vì nhân nghĩa mà phổ trình Đạo Lớn.
Bậc hạ sĩ vào đường chặn ngỏ
Giận mà làm nhục mạ cho dơ
Thị phi tà chánh thân sơ
Trong vòng tranh đoạt trơ trơ tánh phàm.
Coi trong đó biết phàm hay Thánh
Nhìn vào đây xét thấy rõ ràng
Đức cao độ lượng cao sang
Đạo cao dứt bỏ con đàng hơn thua.
Lửa sân hận người tu phải giải
Mới thoát ra tâm dục tánh phàm
Từ bi bác ái nên làm
Mới là đạo đức vào hàng thượng nhân.
2. Tham Si:
Thấy màu sắc thì mê
Thấy đen tối thì chê.
Thương thì suy diễn điều lành
Ghét thì suy diễn điều ác.
Biết một suy diễn ra mười
Biết ít suy diễn ra nhiều.
Có suy diễn ra không
Không suy diễn ra có.
Yêu thì si mê sanh ra chiếm đoạt
Giàu thì si tính sanh ra keo kiệt
Thương thì si tình sanh ra thù oán
Ghét thì si oán sanh ra sát phạt
Lo thì si loạn sanh ra khiếp nhược
Được thì si giữ sanh ra cố thủ
Nghi thì si ngờ sanh ra rào đón
Mê thì si tưởng sanh ra ngờ vực
Hơn thì si luận sanh ra thị phi
Thua thì si ố sanh ra làm nhục
Thích thì si yêu sanh ra nhục dục
Ái thì si ân sanh ra tửu sắc
Bệnh thì si tử sanh ra sợ hãi.
Các con thấy, cái tham si mà vào tánh con người, thì sanh ra muôn hình vạn trạng. Vì vậy mà con người muốn tu tịnh nó phải dùng cách:
Si trong yêu thương, lấy thanh tĩnh để hoá giải
Si trong tham cầu, lấy quán thông để hoá giải
Si trong keo kiệt, lấy bố thí để hoá giải
Si trong oán ghét, lấy từ bi để hoá giải
Si trong vinh hoa, lấy đạm bạc để hoá giải
Si trong ham thích, lấy tiết độ để hoá giải
Si trong công danh, lấy nhân nghĩa để hoá giải
Si trong tham dục, lấy an phận để hoá giải.
Năm màu ngũ sắc chiếu lung linh
Kẻ diễn người suy cõi hửu tình
Mê thì say đắm đường vinh nhục
Kẻ tỉnh thoát ra chẳng cột mình.
Cột mình vào đó chốn phàm nhân
Suốt kiếp ngồi si cái mộng trần
Thành trụ hoại không, già mới biết
Tỉnh si gối mõi lại lưng còng.
Chơn tu thấy rõ chỗ đời si
Chỉ biết lắc đầu, tỉnh tỉnh đi
Đây là ngả Phật đi đường lớn
Thoát khỏi dòng mê mới hết si.
3. Tham Hỷ:
Vui trong vinh hoa, tham cầu khoái lạc.
Đã đi đường khoái lạc thì tội ác không từ,
giết thú cầm để làm vui,
mượn sắc dục để thoả chí.
Vui trong vinh thân thì thích tề gia
Thích tề gia sanh lòng chiếm đoạt, đố kỵ,
sanh ra biên giới rồi tự cố thủ.
Vui trong vinh danh thì thích ca ngợi
Thích ca ngợi thì tương tranh, sát phạt,
đàn áp không dừng, mà tạo thành oán nghiệp.
Vui trong vinh dự thì thích củng cố địa vị.
Đã củng cố địa vị của mình thì sanh ra phá kẻ đối lập,
bè đảng hơn thua. Từ đó cửa Địa Ngục mở lối.
Thầy chỉ giảng sơ trong bốn cái vui cho các con thấy là không nên vui lối đó, mà phải tự biết hoan hỷ, tuỳ duyên mà độ đời. Cho nên, Thánh Nhân biết tỉnh mình trong lúc được, vui, bằng cách nầy:
Được thì ung dung
Mất thì bình thản.
Vui thì từ tốn
Buồn thì từ hoà.
Được thì thưởng thí
Thua thì an phận.
Tài thì khiêm nhượng
Đức thì bao dung.
Nhân thì độ lượng
Trí thì thông suốt.
Có thì tự lập
Không thì trung dung.
Lúc vinh hoa
Yên mình, vui tỉnh người.
Lúc vinh thân
Tề gia, trọng Đạo, nhân nghĩa.
Lúc vinh danh
Dùng ngòi bút để yên thiên hạ.
Lúc danh dự
Được sáng đức của mình
Nâng đỡ hàng đạo đức.
Đạo nên lấy chí công làm nhà lớn
Đức nên lấy vô tư làm đất lớn
Nhân nên lấy vô danh làm trợ duyên cho việc nhân nghĩa của thiên hạ.
Chỉ có làm được như vậy, thì các con mới thoát ra lòng si mê của bản tánh phàm ngã của con người.
Kế đến các con nên diệt các tâm sau đây:
Tham cầu suy tưởng chỗ bất chánh
Tham gian suy tưởng chỗ bất công
Tham ngôn suy luận chỗ vọng ngữ
Tham ái suy diễn chỗ chiếm đoạt
Tham ân suy diễn chỗ hưởng thụ
Tham sanh suy diễn chỗ sợ tử.
Chết cho nhân nghĩa thì sống muôn đời
Sống cho tham dục là chết trong tủi nhục.
Các con cứ coi theo đây mà xử trí cho đúng một vị trượng phu của thời đại văn minh, để mà học tập thành Tiên đắc Phật.
4. Tham Nộ:
Trời không vì giận một người
mà giết hết cả nhân loại.
Thánh Nhân không vì giận một người
mà bỏ việc nhân nghĩa của thiên hạ.
Thượng nhân không vì giận một người
mà quên vun xới phúc điền của chính mình.
Hiền sĩ không vì giận gian thần
mà bỏ đi cả triều chánh, cho lê dân đồ thán.
Nhân sĩ không vì giận một người
mà bỏ hết sự độ lượng của chính mình.
Học Đạo không vì giận một người
mà triệt hết con đường giải thoát của chính mình,
và triệt luôn đường tiến hoá của nhân loại hay sao?
Học sĩ không vì giận một người
mà không chịu ra giúp nước, độ nhân, phổ truyền đạo đức.
Nhân tâm không vì giận một người
mà trở giáo quay gươm giết hàng tuấn kiệt,
thì còn đâu bậc nhân tài định quốc an dân?
Đạo cao nhất là lòng chí thành
Có lòng chí thành mới thành bậc Chí Thánh.
Đức cao nhất là lòng trung tín
Có đầy lòng trung tín thì coi thường trở ngại,
thì mới thành bậc Trung Thần.
Nhân cao nhất là lòng từ bi
Có đầy lòng từ bi mới cứu khổ ban vui, độ người cứu vật, mới thành bậc Vĩ Nhân.
Trời giận người quá mê
Nên ban nhiều khí linh sáng suốt cho người tự tỉnh.
Thánh Nhân thấy đời quá tối
Nên ban phát kinh, thí pháp không dừng để cho nhân loại khai sáng trí tuệ.
Đến đây các con mới thấy đức hiếu sinh của lòng Trời ban ra cùng khắp cho thiên hạ, con của Ngài học tập an dưỡng vào đời Tân Dân Minh Đức nầy.
5. Tham Ái:
Biển ái dục chôn biết bao nhiêu người quân tử
Gươm ái tình chặt biết bao khách anh tài.
Bậc tuấn kiệt tunh hoành tứ hải
Lòng không ngăn, lửa ái cháy khô.
Nhan sắc như nàng Kiều cũng không thoát ra vòng định mệnh.
Hồng nhan bạc phận cũng lắm cho khách quần thoa.
Cửa công môn nhận chìm biết bao hàng thục nữ
Cầu đoạn trường ngăn cách bao cuộc ái ân.
Giỏi như Trụ Vương còn ngã lòng với Đắc Kỷ
Giọt nước mắt của Tây Thi làm bậc thượng võ phải mềm lòng.
Dây oan tình trói lòng nhiều danh tướng
Cửa ái tình xô ngã bậc chơn tu.
Lấy đó soi đây tỉnh tâm hoá giải
Biển ái dòng mê, quay chân trở lại.
Thanh tịnh trong lúc yêu
Để dạy con ma tình ái.
Hoá giải trong lúc thương
Để phục hồi chơn bản ngã của người tu.
Kềm lòng trước lầu hoa
Cho ma dục cháy tan.
Của ái ân sanh cảnh luân hồi
Nợ con vợ triền miên đòi hỏi
Rồi một kiếp trôi theo nhân nghĩa
Còn đâu là linh tánh để mà tu.
Đời có hai dòng
Mê - đời. Giác - Đạo.
Đạo có hai phương
Giải mình, thoát họ.
Tình có hai ngả
Địa Ngục, Thiên Đàng.
Mê ái là tâm của chúng sanh
Từ ái là tâm của Bồ Tát
Biển ái là dòng định mệnh
Bác ái là thiền pháp độ hành.
Nhân ái là lòng trần sanh nhân nghĩa
Thương yêu là Đạo của bậc chơn tu.
Thương thì cứu khổ để cải hoá
Yêu thì từ độ để hoá giải.
Đi trong biển ái
Nhớ lại lòng tu
Ra sức công phu
Thoát dòng ái dục.
Cửa thanh tịnh cháy tiêu loài ái dục
Thật lòng tu dứt khoát chuyện nhũ phòng.
Đem ái đổ xuống sông
Trôi theo dòng sông mệnh.
Đem yêu bỏ xuống biển
Cho rửa sạch trần tâm.
Ái ái yêu yêu một giấc nồng
Qua dòng sông ái Đạo mới thông
Thoát ra mới biết ai chơn giả
Xin chớ bàn xuôi ở giữa dòng.
Tiên vào đời còn sợ biển yêu
Thánh vào đời còn sợ siêu vì ái.
Ai chưa thông chưa phải người đã giải
Ai chưa rèn chỗ dại, khó sanh khôn.
Biển dục thoát ra mới là đại giác
Lòng mê không nhiễm mới đạt danh sư.
Thấy thế thái chớ vội cười
Thấy người hư đừng vội trách.
Núi cao còn có long mạch ẩn tàng
Người dở biết cải sửa là người đại trí.
Khôn chưa hiểu Đạo chưa gọi là khôn
Dại chịu tu dưỡng chưa chắc đã dại.
Chim bay trên cao muốn liệng phải ngừng quạt
Người chơn tu muốn thanh tịnh đừng nên hạch hỏi.
Ái hà! Ái hà!
Yêu lắm thành Ma
Ái nhiều thành Quỷ
Có yêu phải nghĩ
Chi kỹ mới yêu
Lòng có ái siêu
Phải dìu cho sáng
Chớ nên quờ quạng
Nghiệp lực nó nhồi
Đi hết đường đời
Lưng còng gối mỏi
Mới hỏi tại ai
Tại mê thằng ái
Khổ ải nó đeo
Tỉnh thức tự trèo
Qua bờ Bỉ Ngạn
Làm bạn Tiên Gia
Thoát biển ái hà
Mới qua bờ giác.
Các con đã thấy rõ đâu là bờ giác, đâu là chỗ dòng mê, mà lo tỉnh tâm tu luyện.
6. Tham Ố:
Trời nhiều mây che tối nhật nguyệt
Tâm thị phi che tối trí tuệ.
Cái tâm đen tối nó thể hiện qua:
Được thì bao che khoả lấp
Mất thì phỉ báng nhục mạ
Hơn thì ganh đua tranh cạnh
Thua thì nóng giận đàn áp.
Trong đời cầu an để nhàn cư
Vào Đạo cầu ôm để được danh.
Nên thì hoan hỷ ca tụng
Hư thì mạ nhục không dứt lời.
Hay hơn thì bài bác làm dơ cho xấu
Giỏi hơn thì đem tâm phân biệt thị phi
Tài hơn thì kiếm cách che đậy cho khuất
Mạnh hơn thì tụ bè đảng để lấn quyền
Yếu hơn thì hạ thủ không còn lòng nhân nghĩa.
Đức sáng để tỉnh người
Đạo minh để độ chúng.
Làm nhục người tức làm nhục chính mình
Hạ danh dự của người tức hạ danh dự của mình.
Khải ngộ cho người là khải ngộ cho chính mình
Giải oan cho người là giải oán nghiệp cho chính mình.
Giúp người là giúp mình
Độ người là độ mình.
- Người được độ
Khi tỉnh lại độ người kế tiếp.
- Người được cứu
Khi thức lại cứu người kế tiếp.
- Người được Đạo
Khi ngộ, ngộ cho người kế tiếp.
Nhờ vậy mà Đạo được truyền nhân
Nhờ nhân mà Đạo được truyền đời.
Ai đã giác Đạo lại không muốn giác tha?
Ai đã ngộ Đạo lại không muốn độ tha?
Nhân diệt ố để trừ lòng bạo ác
Đạo diệt chánh tà để giải thoát lương tâm.
Cha mẹ sanh con, ai không muốn con mình nên danh?
Làm bậc sư phụ, ai không muốn đệ tử mình thành bậc chân nhân?
Trời Đất có sẵn đức hiếu sinh
Tiên Phật có sẵn lòng từ bi hỷ xả.
Cha mẹ có sẵn lòng nhân lớn rộng
Chơn tu có sẵn tâm vị tha bao khắp.
Người nhân nghĩa có sẵn sự bao dung
Người nhân đức có sẵn độ lượng lớn.
Đức của đất lớn
nên nuôi dưỡng cả vạn vật.
Đức của biển lớn
nên dưỡng nuôi cả hoàn cầu.
Đức của thảo mộc lớn
nên nuôi dưỡng cả thế giới.
Đức của dưỡng khí lớn
nên nuôi sống cả Vũ Trụ.
Đức của Trời lớn
nên chứa hết cả không gian.
Người muốn tu vào chỗ đạo đức lớn
nên coi đây mà tỏ sáng cho mình.
Trời ban ánh sáng cho muôn loài mà không nói
Người có Đạo, làm mãi mà lại vô danh.
Vô danh cầu Đạo của Trời
Vô tư cầu Đạo của Tiên Phật.
7. Tham Dục:
Ma Lục Dục dụ dỗ người tu Đạo
Quỷ Thất Tình cản lối đức chơn tu.
Đến đây các con phải biết tỉnh mình bằng cách:
Lửa Lục Dục nổi lên
Dùng pháp thuỷ rửa sạch
Thì oan gia tự nó cháy tiêu.
Đời xưa nay:
Bậc thượng sĩ không ngăn lòng dục vọng
Nên ra cầu danh mà bỏ thân phận hiền tài.
Bậc chí sĩ không ngăn lòng dục vọng
Nên tham cầu vinh hoa, trôi giữa dòng tửu sắc, nhục dục khiến sai, nhân tâm làm ố.
Bậc khanh sĩ không ngăn lòng dục vọng
Nên chạy theo đứa hoạn quan, ganh hiền, ghét sĩ, làm cho triều chánh ngữa nghiêng, bia đời nguyền rủa, muôn thuở nhơ danh người khanh sĩ.
Bậc công hầu sĩ không ngăn lòng dục vọng
Nên chạy theo mưu cầu lợi lộc, rồi sanh ra tâm lừa lọc, túc trí đa mưu mà chiếm đoạt của người, làm hại đến đức phụ mẫu liêm khanh của hàng đạo đức.
Bậc nhân nghĩa sĩ không ngăn lòng dục vọng
Nên bày ra cảnh đấu tranh tương tàn, nồi da xáo thịt, làm hại đến nền đạo đức lớn của quốc gia, lòng dân mất tín nhiệm, đạo giáo suy đồi, lòng người chạy theo tham dục, coi rẻ nhân luân, xem thường Đạo Lý là vậy.
Đi đường Thiên Dục thì siêu thoát
Đi đường nhân dục thì đoạ lạc.
Dục trong tịnh đạt được lý thanh
Dục trong động gom tụ điển trược.
Dục thanh sáng, hoá giải tai kiếp
Dục trong u tối, đi sáu ngả trầm luân.
Chuyển đổi thế đi
Khai hoá lý dục.
Mở cửa U Minh để giải thoát chơn thể
Đi đường Thiên Dục sẽ đắc thành chánh quả.
Dục để hoá thân
Thân hoá giải nghiệp trần.
Dục để chuyển thế
Sanh Thánh Thai đắc pháp.
Vô Tự Chơn Kinh
Thông dục ngộ mình.
Trời thanh, lý Âm Dương dục hoá
Đất tĩnh, đạo cương nhu nuôi người.
- Lòng dục sanh tâm phân biệt.
Đã phân biệt thì triệt hại lẫn nhau, chặn đường lấp ngỏ, nhục mạ người, để làm vui thích trí phàm.
- Lòng dục sanh tâm chiếm đoạt.
Đi đến cảnh chiếm đoạt thì sanh cảnh nồi da xáo thịt, tương tàn huynh đệ.
- Lòng dục sanh tâm tham ái ân.
Đi đường ái ân thì nghiệp chướng nó nhồi không dứt, muôn kiếp khó ra vòng tửu sắc.
- Lòng dục sanh tâm đấu tranh.
Đã đi vào đấu tranh thì làm hôi tanh tánh Đạo, sỉ nhục bản thân, nhọ bôi lem luốc.
- Lòng dục sanh tâm thiện ác.
Đã chấp vào thiện ác thì bị phải quấy kéo trì, luôn muốn hại người để mình làm chánh nghĩa, sanh tâm phân biệt chánh tà, tranh đấu, bao che.
Lòng dục sanh, thì:
Cửa Địa Ngục chôn chân
Đường Thiên Đàng bí lối.
Ma dục vọng khiến sai
Đường luân hồi mở cửa.
Hơn thua để chôn mình
Ganh đua để hại người
Cả hai không phải là đường đi giải thoát.
Muốn đi đường giải thoát
Tâm không chánh không tà
Trong làm chủ Sáu Ma
Ngoài Lục Căn thanh tĩnh.
Không nghe theo đứa gian
Để tâm an trí tịnh
Đừng nghe đời lừa phỉnh
Để tu chính bản thân.
Ma Lục Dục bao khắp nẻo trần
Lòng nhân loại Thất Tình đầy dẫy.
Nghe theo phải quấy
Lòng dục khiến sai.
- Muốn tỉnh mình:
Nên nghe kinh pháp của Như Lai để giác ngộ, độ mình qua biển dục trần gian.
- Muốn tỉnh chúng sanh:
Biết ban ơn thí pháp, giác tha, lợi chúng, cho nhân tâm xuôi thuận theo về dưỡng Đạo.
Thầy giảng đến đây, các con thấy các ngả trầm luân là do lòng dục vọng khiến sai. Sáu ngả luân hồi mới trói buộc, phàm thánh mới đấu tranh, nhân tình mới xúi dục, mà sanh ra loạn tâm, mê muội. Vì vậy, muốn vượt Thất Tình các con phải làm theo cách như sau:
- Đạo Lớn tu luyện đến cõi vô hình.
Đã vô hình thì diệt tướng trừ sắc, diệt tà trừ chánh.
Ma đến diệt Ma
Phật đến diệt Phật.
Thì tâm ma không còn hiện phật cảnh để dụ mình, thì chánh tà tự nhiên vô ngã.
- Đức Lớn có sức dung chứa.
Tỉnh mình để có sự dung chứa để tỉnh người.
Thắng mình mới có đủ dũng để thoát khỏi cảnh người lôi kéo vào vòng vinh nẻo nhục, sanh ra đấu tranh.
Độ mình để có đức rộng lớn mà độ hết sự thiện ác và phải quấy của nhân tâm bao khắp.
- Nhân Lớn phải có đủ trí định huệ vô tranh.
Trí các con có sáng thì chơn tâm mới định, tinh thần mới minh giải cho phải quấy của tình đời 'vô tranh chi giáo'.
Lòng các con có đầy đủ vị tha mới dung chứa nổi sự thiện ác của nhân loại, hành độ theo đức lớn vô tranh, tự do thanh thản.
Tâm các con có đủ thanh quang điển lành thì mới có đủ đạo lực hoá giải nghiệp chướng trầm kha của nhân loại để khỏi tác động đến mình, để Đạo thật Đạo 'vô tranh chi giáo'.
Trước là đền ơn Trời, hành Đạo độ tha lợi chúng.
Sau đền ơn Tam Giáo Đạo Gia, Thầy Tổ, Cửu Huyền siêu độ cho nhân tâm nghe kinh mà giải thoát.
(Hết trang 86.)
(Tiếp trang 61.)
THẤT CHƠN CHUYỂN THẾ
- THẤT TÌNH LỤC DỤC -
🔆
Vị Hoàng Đại Tiên tiếp tục lên lớp cho các môn đệ về phần tiệt dục.
Ông giảng:
- Mỗi con người gồm có bảy phần nhân dục giới. Nó kết từ nguyên thể của Thất Chơn Chuyển Thế. Khi nó vào thể xác của con người, nó mượn tinh cha huyết mẹ mà tạo thành nhân dục và lập thành bản thể.
Các con cần nên biết, khi con người chưa có sanh, cái phần Linh Quang từ cõi Vô Cực Thượng Giới muốn xuống đầu thai làm người phải mượn qua bảy thể của Vũ Trụ Càn Khôn, thì mới đi vào đường Lục Đạo để đầu thai làm một con người. Bởi vì Chơn Linh Vô Thượng quá thanh nhẹ, nếu không mượn bảy thể để bao bọc lại, thì nó sẽ làm nổ tung thể xác ra từng mảnh. Vì:
Vật cực thanh vào cõi cực trược
Vật cực tịnh vào cõi cực động
Vật tột lành vào cõi cực ác
Vật linh thiêng vào cõi cực ma dục
Vật linh ứng, biến hoá, vào cõi vô minh
Vật tột phẩm văn minh vào cõi phân biệt
Vật tinh ba sáng suốt vào làm chúng sanh.
Vì vậy mà Thầy phải cho nó mượn bảy thể thiêng liêng bao trùm nó lại, để cho nó:
Giảm bớt khí khinh thanh
Giảm bớt khí tịch diệt
Giảm bớt sự thiện lành
Giảm bớt sự linh thiêng
Giảm bớt sự biến hoá
Giảm bớt sự phát minh
Giảm bớt sự tinh ba trong sáng.
Thầy còn cho nó mượn bảy thể bao bọc nó lại cho khỏi hại đến thể xác. Đó là:
-THẤT CHƠN CHUYỂN THẾ-
1. Chơn Quang - Hư Vô: Là khí hoá Vô Cực, huyền huyền, diệu diệu. Thời kỳ của hoảng hốt sơ khai tạo ra nhịp tâm của Vũ Trụ liên kết với con người, sanh ra Nê Hườn Cung và lỗ mũi, để tiếp khí Tiên Thiên. Tâm Đạo từ đó mới vào Hậu Thiên thành tâm của con người.
2. Chơn Linh - Thái Cực: Là khí hoá của Đạo Thể Nhất Nguyên. Trên cao nó tiếp khí Hạo Nhiên của Vô Cực vào giữa ngôi Thái Cực để làm con đường tiến hoá của Đạo. Qua trái tới phải là trợ cho khí hoá Âm Dương, từ đó đi xuống Hậu Thiên vận hành Vũ Trụ, săn sóc Càn Khôn. Nó tiếp xuống bộ óc của con người, sanh hoá ra 4, 320, 000 chữ v bằng Linh Điển Tiên Thiên, tạo thành hệ thống ký ức của hệ thần kinh bộ não, để thành hệ trí nhớ, lưu trữ các sự học tập và thấy nghe biết. Nó gồm hết vào trong ký ức để lưu trữ lại.
Nó còn sanh ra 4,320,000 bộ nhớ, để phát minh sự học tập tiếp thu từ trong Vũ Trụ Quang. Nó ghi chép lại rồi cho con người có sự thông minh mà khai hoá nó ra. Người không biết chỗ nầy, cho là mình phát minh hay là nghĩ ra được những điều mới lạ. Việc đó rất dễ hiểu, vì cái Chơn Linh nó là khí Hồng Mông Vô Cực, nó mang đầy đủ sự phát minh và thông suốt vào linh giác của nó một cách trọn vẹn. Lúc nó xuống đầu thai, khi đi qua Thái Cực gặp khí hoá Âm Dương nên nó chuyển thể cho bộ óc giữ giùm sự linh giác của nó, gởi vào ký ức và bộ trí nhớ của hệ thần kinh. Nhà Đạo gọi là Giới Định Huệ.
3. Chơn Thể - Khí Hoá Âm Dương: Khi nó xuống gặp ngôi Thái Cực và khí hoá Âm Dương, nó sanh ra Hồn và Vía đi kèm với Chơn Quang. Lúc nầy vị vua lập pháp, có tổng trưởng bộ quốc phòng, và vị thủ tướng coi ngó, không còn hoàn toàn tự do nữa. Nó hiệp vào khí hoá Âm Dương sanh ra mắt trái và mắt phải để điều hành Âm Dương trong cơ thể.
4. Chơn Tánh - Khí Hoá Tam Thanh: Khi nó qua Âm Dương Giới, nó mượn luồng Tam Thanh Chơn Khí. Đó là khí nóng của mặt trời, khí lạnh của mặt trăng và tinh ba sáng suốt của các hàng tinh tú. Đem ba khí đó vào hiệp thân, thì sanh ra Thần Khí Tinh trong bản thể của con người.
5. Chơn Hồn - Tứ Tượng Thời Khí: Nó xuống vòng Trời Tứ Thánh mượn khí tiết của bốn mùa mà hoà với Đông Tây Nam Bắc
Đông - mùa Xuân sanh Mộc Khí
Tây - mùa Thu sanh Kim Khí
Nam - mùa Hạ sanh Hoả Khí
Bắc - mùa Đông sanh Thuỷ Khí.
- Mộc Khí sanh Hoả
- Hoả Khí sanh Thổ
- Kim Khí sanh Thuỷ
- Thuỷ Khí sanh Phong
Bốn khí hiệp lại tạo ra Nước Lửa Gió Đất, để nung đúc bản ngã của con người và nuôi sống bộ máy linh thiêng của Trời Đất.
6. Chơn Thần - Ngũ Khí: Nó lại đi vào cõi Ngũ Hành để mượn Ngũ Khí mà hoá thân nuôi Ngũ Tạng, khai sáng Ngũ Giác, học tập Ngũ Kinh, thực hiện Ngũ Đức, Ngũ Luân, Ngũ Lý.
- Trời lấy năm Khí để nuôi người
- Đất lấy năm Sắc để sanh người.
- Trời lấy năm Hành để hoá sanh
- Đất lấy năm Tạng để nuôi sống.
Nhờ vào cõi Ngũ Hành mà nó được giáo hoá theo Ngũ Ngươn, Ngũ Đức của Trời Đất.
7. Chơn Hình - Lục Đạo Thần Khí: Khi nó vào Lục Đạo thì mượn Lục Căn để kết thể, mượn Lục Trần để đầu thai. Còn theo đường Lục Đạo đi xuống Thất Trùng Thiên của Trời Đất mà cấu kết ra Thất Từng Hàng Thọ và Thất Từng La Võng. Khi nó hiệp vào khí của cha, sanh ra Thất Tình; hiệp vào huyết của mẹ, sanh ra Lục Dục. Từ đó Thất Chơn có đủ tánh phàm là Thất Tình Lục Dục của chúng sanh.
(Hết trang 65.)
(Tiếp trang 56.)
Người tự do để Thái Bình trăm họ
Làng nước tự do thiên hạ hưởng phước Trời.
Đây là các điều trong Đạo Học Tiên Thiên. Các con coi theo đó mà áp dụng khi ra đời lập nghiệp, tạo phước cho nhân loại.
Còn việc Thầy độ nhựt tự do, lý do đơn giản và dễ hiểu:
Thầy ăn mà không động
Thầy độ chớ không ăn.
Thân của Thầy tu dưỡng đã nhiều năm trường chay giới sát, nên nó thanh sạch như một cái nhà lớn của vị quốc vương cai ngự. Còn chúng sanh trong nhà của Thầy như các quan thượng đẳng công hầu:
Trên tiếp khí Tiên Thiên
Dưới triều nguyên hiệp thể.
Trong tư dục không sanh
Ngoài ngũ giác thanh tịnh.
Đạo gia thì tu dưỡng không dừng
Binh gia thì làm việc không nghỉ.
Hễ vật gì Thầy độ vào thì nó luân chuyển đưa đi tiến hoá tức thời. Khi các con đạt đến mức nầy, thì các con mới hiểu ra cơ thể của người đạt Đạo như là cái máy Thiên của Trời chuyển luân Tam Giới. Nó có thể sắp số đặt mệnh cho chúng sanh nữa là khác. Vì nó thật sự thế Thiên hành Đạo, có thể sai khiến được Quỷ Thần làm việc trong các cõi Vô Vi.
Thiên biến vạn hoá
Linh ứng khắp cả.
Đến chỗ không lòng
Vô tư hành Đạo.
Thầy đã tu dưỡng đến đây, đừng nói độ cho một con cá hay chai rượu, mà Thầy còn độ cho các con thành Đạo đắc Pháp kia mà. Tại các con chưa hiểu rõ chỗ bản thân của người đạt Đạo, mà đem ra bàn thảo theo Đạo Lý của Hậu Thiên Vô Vi, thì khó mà thông suốt vào tầng điển Tiên Thiên Huyền Bí.
- Người chưa đạt Đạo là:
Ăn phải giữ giới, trường chay
Nói phải cẩn ngôn, thiện ý
Làm phải tinh tấn, linh hoạt
Đi phải nghiêm trang, thanh tịnh
Đến phải báo trước, thông tin
Về phải nghiêm trang, hành lễ
Tất cả đều trong Đạo Vô Vi Hậu Thiên
Và Đạo Hửu Vi của Hậu Thiên.
- Còn người đạt Đạo Vô Vi Tiên Thiên là:
Ăn thì độ sanh cải tử
Nói thì Thiên Lý truyền tâm
Làm thì vô tư huyền bí
Đi lại giữa Tam Giới tự do
Đến thì huệ tâm thần giao ứng cảm
Về không ai thấy, huyền ẩn vô hình.
Khi chỗ liễu ngộ:
Ngộ Không ra mối cầu ô
Ngộ Đạo hiệp nhà lớn Hư Vô
Ngộ Tánh như nhìn trăng đêm vắng
Ngộ tâm như vào cõi Đại Quang Minh.
Niết Bàn Không, thanh tâm trống trống
Đạo suốt thông, lồng lộng bao la.
Vân du bốn bể Ba Nhà
Ra vào Sáu Cõi luyện hình Như Lai.
Thơ
Tánh trần không trời trong Đạo tịnh
Tâm trần không hiệp Đại Tự Nhiên
Lòng không lòng ngộ Đạo Thiên Tiên
Tình không tình hiệp thể Nhất Nguyên.
Khi đến đây, các con mới hiểu lời Thầy nói là một sự minh triết, đưa các con tu dưỡng ra khỏi chỗ Hậu Thiên mê chấp, mà về hiệp thể Tiên Thiên giải thoát.
Phàm tâm mê buộc chấp
Đường giải thoát khó về.
Đạo trong mê suy diễn
Tu suốt kiếp không thiêng.
Lòng tư dục còn động
Nguồn Thần Linh biến dạng.
Nếu các con có cái tâm nầy, thì nên dùng cách Thầy dạy mà hoá giải nó ra cho khỏi chỗ luân hồi.
Phàm mê, buông hết, tâm an
Tầm đường giải thoát Chơn Quang hiệp về
Đạo Tâm là Đạo Bồ Đề
Bỏ đời bỏ Đạo dựa kề Như Lai
Vô tư, dục vọng chết ngay
Thần linh trở lại đủ đầy phép linh
Đạo đâu? Đạo ở trong mình
Biết tu dưỡng nó thì linh hơn người
Đừng làm tu giả con ơi
Giả tu cùng kiếp mãn đời phí công
Chơn tu vạn sự lòng không
Để lòng linh ứng chứa nuôi Đạo Trời
Thuận Thiên Đạo Lớn ngộ rồi
Trời to đất rộng là ngôi Niết Bàn.
Thầy tạm giảng đến đây cho các con thấu đáo được lẽ huyền diệu của Đạo. Sau nầy có nhân duyên Thầy lên lớp cho các con về phần Thất Tình Lục Dục và Thất Chơn Chuyển Thế.
***
(Hết trang 60.)
(Tiếp đầu trang 51. )
d. Nhân Lớn vô danh.
Như cái chai không
Muốn đổ cho đầy
Đầy đừng để tràn
Thủy chung nhất dạ.
Nhân Lớn
Giúp người không tính công
Độ người không sợ khổ
Nuôi người không sợ nghèo
Cho người không sợ mất.
Giúp được người là giúp chính mình
Người được giúp biết thọ ơn
nên tự nhiên vun trồng hạnh đức.
Đến với kẻ khác
thì họ đã thay mình làm việc của Trời.
Độ được người qua cơn nạn khổ
Là hóa giải được tai ách ma chướng cho chính mình.
Người được cứu, thọ ơn pháp thí nên tỉnh ngộ
Họ lại thay mình bố thí cho kẻ thất thời.
Như vậy họ đã thay mình làm việc nhân nghĩa.
Đó là cách trồng người.
Huống chi giúp bậc chơn tu qua cơn đói lạnh, khi tu thành chánh quả, sau đó họ hồi hướng công đức lại cho mình, cháu con ba đời được phú quý.
Nuôi người là nuôi chính bản thân mình. Vì:
Dòng đời có lúc thạnh suy
Nước biển có khi ròng lớn.
Nuôi người lúc bịnh yếu tàn tật thất thời
Tức là bố thí đức hiếu sinh của Trời vào trong nhân gian rồi vậy.
Cho người là vun bồi phúc thiện cho chính mình muôn đời không mất.
Hoa phúc thiện muôn đời không héo
Bố thí đi, phúc đức tái bồi
Cho người Trời lại giúp cho
Độ người Trời độ, không lo khổ nghèo.
Hôm nay Thầy giảng cho các con thấy được sự vi diệu của Chay Tịnh, Chay Giới, Chay Tâm, để các con theo đó mà hành xử cho đúng đạo đức của người tu Tiên luyện Đạo.
Còn việc tại sao Thầy lại ăn uống tự do?
Người mới tu vào bửa ăn, gọi là ăn uống
Người đã tu thông suốt gọi là độ nhựt.
Bởi vì các con mới tu cái tâm với cái lòng còn rối lẫn nhau. Vì:
Ma Lục Dục còn kéo lôi
Quỷ Thất Tình còn sai khiến.
Nên Thầy kêu các con trường chay sát giới là vậy.
Trường chay cho Ma Lục Dục lọc thanh
Giới sát cho Quỷ Thất Tình học tịnh.
Cho tất cả Lục Căn, Lục Trần, Tánh Vía, đều theo sự chay tịnh mà tu hành học Đạo với Chủ Nhân Ông, để cho trên dưới, trong ngoài, Tam Điền, Lục Mạch của các con:
Đồng thanh tương ứng
Đồng khí tương cầu.
Diệt bỏ phải quấy
Giết chúng sinh tâm.
Phàm tâm các con có liễu thì đạo tâm mới sanh.
Từ đó các con nhận lại thiên chân nguồn cội. Các con mới thâu lại:
Đức Lớn của Tiên Gia
Đạo Lớn của Trời Phật.
Sau đó các con sẽ vào chỗ Nhất Nguyên:
Luyện tập chơn khí Hỗn Nguyên
Cho trí tuệ phát minh đạo đức.
Học tập chơn lý vô tư
Để có độ lượng thương người mến vật.
Học tập đời sống an nhiên
Yên phận giữa chỗ Trời thanh Đất tịnh.
Đạo đức tràn đầy, mà lòng lại vô tư ngâm vịnh Thái Không.
Đạo đề cử nhân đức thì làm, chớ lòng không vào chỗ tranh đoạt danh lợi.
Sống lấy Đạo để truyền đời
Lòng không mong vọng làm sư ai cả.
Hửu duyên
Các con dạy chơn lý tu Tiên.
Vô duyên
Xa lánh, định thiền cho yên mối Đạo.
Thi nhân bất cầu báo
Hành Đạo thật vô tư.
Đời cầu Đạo nên giúp. Nhưng các con nên nhớ khi vào đời phải thông suốt điểm nầy:
- Người có Đạo Lớn:
Vào đời không nhiễm
Vào trần không loạn
Vào thế gian luôn giữ thanh tịnh.
- Người có Đức Lớn:
Hành xử độ lượng
Liêm chánh công minh
Xa đường tư dục
Giữ đức hiếu sinh.
- Người có Nhân Lớn:
Trên dưới giữ Đạo công bình
Trong ngoài chí công vô tư
Phò Đạo của người trên
Nâng đỡ chỗ thiếu sót.
Thi nhân đúng người
Hành đạo đúng chỗ.
Đời loạn ta lấy tịnh để chế
Thời bình ta lấy huệ để khai
Thời chiến ta lấy võ để giữ
Thời Thái Bình ta lấy tự do để văn minh.
Trời tự do vô tư huyền bí
Đất tự do dưỡng khí độ người.
(Hết trang 55.)
(Tiếp đầu trang 45.)
- Về phần Chay Tâm. Hôm nay Thầy mở trí cho các con thông luôn thể.
1. Tâm của Trời rộng lớn.
- Ở ngoài không gian thì chứa cả Niết Bàn.
- Ở trong không gian thì chứa Trời Đất và muôn ngàn tinh tú.
- Ở trong bầu dưỡng khí thì nuôi người, nuôi vật, và di chuyển bốn mùa tám tiết không ngơi nghỉ.
Trời làm tất cả mà không nhận công.
Trời dạy cho cả thiên hạ mà vô thinh lặng lẽ.
Như mặt trời mọc lên cho cả thiên hạ được hưởng ánh sáng, mà mỗi người mỗi vật tự biết theo cái sáng đó để làm việc.
Khi đêm tối xuống, mọi người, mỗi vật đều theo sự yên tối mà trở về thanh tịnh an nghỉ. Nhưng Trời thì không giờ ngơi nghỉ. Ngài luôn chuyển luân nguồn khí hoá, xạ xuống thành sương đêm để nuôi côn trùng và thảo mộc sanh trưởng, để cho con người có thực phẩm sinh sống qua ngày. Trời còn ban bầu dưỡng khí Hạo Nhiên xuống giúp cho nhân loại đồng hít dưỡng khí mà sống. Ngài không cho kẻ thiện nhiều hơn, hoặc người ác ít lại, và cũng không cho người giàu nhiều hơn hay kẻ nghèo ít hơn. Ngài cũng không tặng cho giống dân nầy cao hơn, giống dân nọ thấp hơn.
Giàu nghèo đồng khí dưỡng sanh
Đại đồng nhân loại đồng hưởng.
Gió thuận theo lòng Trời
Sương ngọt mát lòng người.
LÒNG TRỜI
Lòng Trời bao la
Ban phát nhân hoà
Cho người sanh ra.
Tình Trời cao xa
Nuôi dưỡng Ba Nhà
Ngày ngày vô tư.
Đạo Trời Vô Hư
Giáo dục nhân loài
Thành bậc chơn sư.
Cây cỏ xanh tươi
Nhờ hạnh của Trời
Nuôi sống nhân loài.
Ai tỉnh tâm tu
Nên nhớ ơn Trời
Trước giờ công phu.
Nhân gian được nuôi
Nhờ khí của Trời
Cứu khổ ban vui.
Trời Già vô tâm
Dạy con âm thầm
Vô thinh Huyền Tâm.
Là người chơn tu
Xin lái thuyền Trời
Cứu đời đang trôi.
2. Chay tâm của con người.
Đời Thượng Ngươn, Trời sanh ra con người là một vị chơn nhơn, chí linh, chí thiện, chí vô tư. Ngài mới cho con người đại diện Trời Đất để làm chúa tể muôn vật. Vì con người thời đó có ba thể tánh lành để đại diện: Trời, Đất, và nhân loại.
a. Lương tâm Chí Linh.
Là nhờ vào tâm chay luôn hiện diện trong người.
Tâm chay thiện ác vô tư
Lòng chay tà chánh vô nhiễm.
Nhờ vô tư, vô nhiễm, mà con người nhất cầu, thì Trời ứng liền.
Nhất cầu nhất ứng
Nhất động nhất chuyển
Nhất ứng nhất biến
Chí linh chí diệu.
b. Lương tâm Chí Thiện.
Đạo chí thiện thay Trời
Đức chí thiện thay Đất
Nhân chí thiện thay người.
Đạo linh ứng nhờ người chí thiện
Đức linh ứng nhờ người chí nhân
Thần Thánh Tiên Phật linh ứng nhờ lòng vô tư.
Người chơn thiện hành Đạo
Không chấp vào thiện nên đạt Đạo Chí Thiện
Nhờ đạt Đạo Chí Thiện mà đại diện Trời Đất.
Người tu đức biết dưỡng đức
nên đạt được độ lượng của Thánh.
Nhân lớn rộng nhờ đức lớn rộng
mà đại diện Tam Giáo.
Người vô tư hành Đạo vô tư
nên được lòng nhân trong thiên hạ.
Quỷ kính, Thần kỉnh, Tam Giáo đồng phục
nên đại diện con người làm chúa nhân loại.
Quân minh dân tin
Đức linh trùm khắp.
c. Lương tâm Chí Vô Tư.
Là nhờ người tu dưỡng tới chỗ Hư Vô tịnh lặng, nên thông suốt được chỗ:
Đạo lớn Vô Hình
Vô tư làm chủ.
Đức Lớn Vô Tướng
Vô tư chí công.
Nhân Lớn Vô Danh
Thiên chân ứng hiệp
Trời không hình
Sanh ra vạn vật hửu tình.
Làm chủ Càn Khôn
Điều hành Vũ Trụ
Lui tới muôn nơi
Yên ẩn muôn chỗ.
Đạo Lớn vô tư
Nuôi người dưỡng vật.
Trời Lớn vô tư
Xoay vần nhật nguyệt
Sắp số Càn Khôn
Lập mệnh vạn vật.
Đức Lớn chí công
Đức Lớn thanh liêm
Đức Lớn công bình.
Đạo Lớn chí công
Vô tư cho mãi.
Đức Lớn chí công
Thanh liêm phụ mẫu.
Nhân Lớn chí công
Hoà bình lập lại.
Chỉ có bậc chí công mới đem Thái Bình trở lại
Chỉ có hạng vô tư mới thật sự tự do
Chỉ có hạng thanh liêm mới gương mẫu độ lượng.
Đức Lớn vô tư
Thưởng thí đến kẻ không ưa mình.
Đạo Lớn vô tư
Độ lượng cho kẻ thiện lẫn ác.
Nhân Lớn vô tư
Xử sự theo đạo lý công bình.
Vô tư không thân sơ
Vô tư không phân biệt
Vô tư không thiện ác
Vô tư dứt chánh tà.
Lòng vô tư bao la lồng lộng
Tâm vô tư linh ứng muôn nơi
Tánh vô tư chứa đựng tình Trời
Trí vô tư tự do phát huệ.
Công bình đạt Đạo Lớn
Vô tư hiệp lòng Trời
Chí công nhân tròn Đạo
Vô tư đại diện Trời.
Nhớ giữ lòng nhân đạt chí công
Tiên Thiên Đạo Lớn vốn không lòng
Vô tư, vô lậu, phi phi tưởng
Hạnh phúc Trời cho đại diện Trời.
(Hết trang 50.)
(Tiếp theo trang 37.)
ĐẠO CHAY TỊNH
🔆
Có ông Đạo Hoàng Đại Tiên vào núi tu Tiên. Đắc Pháp, ông xuống đô thị truyền nghề dạy Đạo cho một số đệ tử tu dưỡng Đạo Tiên Thiên Vô Vi.
Ông dạy mọi người mới vào Đạo thì nên ăn chay trường và mỗi ngày cố gắng tu dưỡng pháp môn cho điều đặn. Ngoài hai phương pháp đó, ông còn giảng kinh thuyết pháp, dạy Ngũ Kinh cho mọi người biết ăn hiền ở lành, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau.
Một hôm, ông sai người đệ tử lớn ra chợ mua một con cá chép và một lít rượu đế. Đem về, ông làm cá hấp, vừa ăn vừa uống rượu chung với các đệ tử ăn chay.
Hôm đó, các vị đệ tử thấy ông ăn mà ai nấy đều thèm chảy nước miếng, nhưng không dám lên tiếng.
Có một vị mới vào học Đạo, không vừa ý, đứng dậy thưa với thầy: "Sao thầy dạy tụi con ăn chay trường, còn thầy thì ăn cá mà còn nhậu rượu nữa?"
Vị sư phụ liền dạy:
- Các con ăn chay là để:
Thanh cái nhân tâm
Lọc cái cơ tạng.
Vì các món chay lạt làm bằng thảo mộc. Trong các thảo mộc hoa quả, nó lớn lên thụ bẩm hai luồng khí hoá Âm Dương của Trời Đất. Cho nên bên trong nó chứa đựng nhiều thanh khí và dược tính, giúp ích cho cơ thể thanh nhẹ, không nhiễm mùi máu huyết Hậu Thiên động loạn. Cho nên những người mới tu như các con, phải nên ăn chay lạt để thanh lọc độc tố của cơ tạng, vì đã chứa đựng bao nhiêu năm ăn uống thịt cá nhục dục của Hậu Thiên.
Vấn đề: Chay Tịnh - Chay Giới - Chay Tâm.
Ăn chay là để thanh lọc cơ thể chớ không phải là phương pháp để thành chánh quả. Người tu phải biết Chay Tịnh, Chay Giới, Chay Tâm.
- Về phần Chay Tịnh:
Đạo mình mình hành
Đạo người người sửa.
Lòng chay vạn sự đều Không
Chay tịnh ý phàm không nhiễm.
Việc hành xử ở đời của ngươi chay tịnh là:
Giữ lòng mình cho tới cảnh Không
Dù thấy biết, dường như không biết.
Đạo người người giác
Phận mình dưỡng Đạo.
Bế Ngũ Quan
Cho Lục Tánh trường chay.
Yên mối Đạo
Cho Chơn Linh thanh tịnh.
Nhục dục khuyến sai
Lòng chay tịnh giải.
Thất Tình nổi dậy
Thanh lọc cho trong.
Tu Tiên giữ lòng Không
Đạo Tiên giữ tâm trống.
Các con làm như vậy, thì mới giữ được sự chay tịnh. Vì mỗi con người vào học tu thân, là tu chính cái lương tâm thuần phát thiện lành của chính mình cho nó thành Tiên đắc Thánh, mà đem cái khí chất của con người từ Hậu Thiên vào hiệp với cái chơn lý Nhất Nguyên Tiên Thiên Mệnh Thể. Để Chơn Linh biết lối cũ đường Tiên mà về Đại La Thiên học Đạo cùng các vị Phật Sự và các vị Thiên Tôn, Chơn Nhơn, để thành chánh quả, hồi phục lại cái thiên chân của Trời Đất sanh ra từ thời Nguyên Thuỷ.
Tu tới chỗ Chay Tịnh thì hiện rõ các cảnh:
Lòng chay hoà với Đại Tự Nhiên
Tâm tịnh kết thân học Đạo.
Lòng chay chế ngự Ma Lục Dục
Tâm chay đốt sạch Quỷ Thất Tình.
Trước chay tịnh cho mình tỏ ngộ
Sau tịnh tâm vào chỗ Huyền Hoàng.
Chay tịnh giữ lòng an
Tâm chay bàn Đạo Lý.
Thật lòng chay không còn vị kỷ
Yên phận mình nhân vị vô tâm.
Chay được lòng mở cửa siêu âm
Nghe được tiếng đờn Thiên Thượng Giới.
Đạo đức lớn lòng chay đi tới
Cửa Thiên Cơ rước khách tịnh tâm.
Lòng chay ngộ Huyền Tâm
Tâm tịnh kết Tiên Khí.
Tỉnh lòng giải thoát các sông mê
Tịnh luyện cõi Bồ Đề phục nghiệp.
Chay trống lòng linh khí Du Tiên
Tịnh trống dạ lái thuyền Bát Nhã.
Đó là phần Chay Tịnh. Thầy tạm giảng hôm nay cho các con.
- Còn phần Chay Giới.
Ý Phật dạy là trường chay giới sát.
Các con đã nghe ngả Phật từ bi, vì Đạo Trời như Bà Mẹ biết thương người quý vật, cho nên:
Trường chay cho tâm dục chẳng sanh
Giới sát cho lòng từ tỏ ngộ.
Mỗi con người đều có tánh thiện lương
Mỗi Chơn Thức có đủ lòng từ của bà Mẹ.
Trường chay không nói lời ô uế
Diệt lòng phàm phân biệt thị phi.
Giới mình theo đạo đức từ bi
Cảnh sát phạt tương tranh sẽ hết.
Giới Đạo của mình là không mình
Giới Đạo của người là không người
Giới cho cả đại chúng là không có đại chúng.
Giới sát cao nhất, diệt tâm phân biệt
Còn phân biệt là còn tánh chúng sanh
Mê tâm còn đầy, đạo tâm che khuất.
Giới sát thứ hai, sanh tâm phải quấy
Còn phải quấy, còn chấp vào thiện ác
Tâm thiện ác sanh ra lý chánh tà
Kẻ lấn người chen đấu tranh không dứt
Tâm không biết giữa giới sát
Thì chỗ nầy là con đường vào Địa Ngục.
Đạo Gia có oán, nên giải không nên kết
Tiên Gia phải giữ lễ nghĩa cho thiên hạ Thái Bình.
Giải được tâm oan gia
Là thoát vòng ma chướng
Cửa luân hồi mới dứt
Nghiệp quả ngàn năm mới tiêu.
Người chơn tu các con nên nhớ:
Học Đạo Vô Vi giới mình là chánh
Giới được mình các nghiệp không sanh.
Tà theo giới cháy tiêu
Chánh theo giới diệt sạch.
Thiện theo giới phát triển
Ác theo giới tự tiêu.
Lòng không lòng là giới sát
Tâm không phân biệt là sát giới.
Cầm gươm trí tuệ
Chặt đứt lòng phàm
Giữ giới diệt tham
Thất Tình chết cháy.
Diệt tâm phải quấy
Mới ngộ chơn tâm.
Giới có sạch, vào trần bất nhiễm
Đạo tâm sanh vạn sự lòng không.
Ăn như không ăn
Nói như không nói
Ngủ như không ngủ
Đi như không đi
Dạy như không dạy
Thì mới hiệp vào Chơn Đạo Vô Vi.
CHAY GIỚI
Việc chay giới người tu phải rõ
Chay giới là chơn lộ minh kinh
Giới chay tâm Đạo quân bình
Lòng chay thanh thản học kinh của Trời.
Lòng đạt giới Hư Không ngâm vịnh.
Tâm trường chay ngộ cảnh giác Không
Tuy thân ăn uống trần hồng
Lòng chay đã đạt Lục Thông cảnh ngoài.
Về cảnh Không, Chơn Linh vời vợi
Hiệp Ba Nhà thông thả vô biên
Tâm chay tịnh giới triền miên
Dưới trên một khí Tiên Thiên của Trời.
Lòng vô cầu ngộ Không vô ngại
Tịnh giới là trở lại Đào Nguyên
Ở đây ăn trái đào Tiên
Khát thì suối ngọt Cam Tuyền mát thân.
Lòng thông thả tinh thần tự tại
Thân giữa đời lòng lại du Tiên
Non cao thanh khí hoá duyên
Học Kinh Vô Tự chánh truyền đời nay.
Ta chẳng muốn làm thầy ai cả
Nhưng Đạo Trời vay trả làm sư
Quán thông một kiếp làm người
Truyền nhân phổ Đạo của Trời tự do.
Không giới sát, không lo, vô tướng
Không, lòng không chẳng vướng trở ngăn
Vô tâm vô tánh vô trần
Có thân tạm mượn dạy phần cao minh.
(Hết trang 44.)
(Tiếp theo trang 33.)
LÒNG KHÔNG NHẸ GÓT